Friday, November 15, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTuyên truyền, vũ khí lợi hại để Trung Quốc “không đánh mà...

Tuyên truyền, vũ khí lợi hại để Trung Quốc “không đánh mà thắng” ở Biển Đông

Tuy không có văn bản hay phát ngôn chính thức về mặt chính sách, song Chính phủ Trung Quốc lâu nay đã tiếp cận có chủ đích, nhất quán và đầu tư những nguồn lực rất lớn để truyền bá và tuyên truyền quan điểm, lập trường, lý lẽ của họ xung quanh yêu sách “đường chín khúc” trên Biển Đông, đồng thời ra sức phản bác, bào chữa, “lấp liếm” cho những sai trái, phi lý, phi pháp của yêu sách trên cũng như bao biện cho những hành động ngang ngược của họ ở Biển Đông.

Trung Quốc đã sử dụng tuyên truyền như một mặt trận, thậm chí là một “phương thức đấu tranh”, nhằm tạo ra những lợi thế về nhận thức trong dư luận, hỗ trợ cho các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, pháp lý và thực địa của nước này xung quanh vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Nhiều năm qua, cách thức tổ chức, nội dung và biện pháp tuyên truyền liên quan đến vấn đề Biển Đông của Trung Quốc, nhất là tuyên truyền về “đường chín khúc” đã trở thành “vũ khí” khá lợi hại giúp Bắc Kinh “xâm chiếm lãnh thổ” ở Biển Đông mà chưa cần phải dùng đến chiến tranh.

Trong “chính trị học”, thông tin, tuyên truyền luôn là một bộ phận cực kỳ quan trọng, không thể tách rời khỏi chính trị của mọi quốc gia, trên cả hai phương diện đối nội và đối ngoại. Ở Trung Quốc, tuyên truyền càng có ý nghĩa quan trọng do Đảng Cộng sản Trung Quốc là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội.

Về đối nội, khi còn sống, Mao Trạch Đông từng chỉ ra rằng “việc thắt chặt kiểm soát truyền thông là điều kiện tiên quyết để duy trì ổn định chính trị” và ông ví việc “kiểm soát ngòi bút” quan trọng không kém gì “kiểm soát nòng súng”. Cho đến tháng 8/2019, Điều lệ công tác tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn tiếp tục xác định “công tác tuyên truyền là công việc cực kỳ quan trọng… nhằm duy trì đường lối lãnh đạo của Đảng”. Gần đây, lãnh đạo Trung Quốc đã nhấn mạnh và coi thành công trong tuyên truyền về các hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo đối với quần chúng nhân dân như là một thành công chính trị để củng cố tính chính danh của mình. Tuy nhiên, trong tuyên truyền về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông, nhất là tuyên truyền về yêu sách “đường chín khúc”, Trung Quốc hầu như ở vào thế đuối lý, khó thuyết phục người dân trong nước vì yếu huyệt chí tử là không có cơ sở pháp lý nào cả. Song Bắc Kinh lại cố tìm cách làm cho cái gọi là “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc trên Biển Đông “ăn sâu vào tiềm thức” của người dân Trung Hoa. Và sau khi áp đặt quan điểm đó vào được nhận thức của người dân, họ lại dựa vào cái gọi là “sự đồng thuận” để thúc đẩy những hành động phi pháp trên Biển Đông.

Về đối ngoại, lâu nay các nước trên thế giới vẫn luôn nghi ngờ ý đồ “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc và nhìn nhận Bắc Kinh như một “mối đe doạ” hoặc là một thế lực tham lam nhằm “xâm lấn lãnh thổ”, “cướp bóc tài nguyên” của các nước khác. Đặc biệt, trong hồ sơ Biển Đông, yêu sách “đường chín khúc” của Trung Quốc đã là hết sức phi lý, nhưng nước này lại còn áp dụng những biện pháp thiên về sức mạnh như cưỡng chiếm các bãi đá và xây dựng trái phép các đảo nhân tạo rồi quân sự hóa; thi hành chính sách ngoại giao “pháo hạm”, chủ động gây hấn, ngang ngược triển khai hoạt động thăm dò dầu khí trong vùng biển của quốc gia khác… Do đó, Trung Quốc buộc phải sử dụng thông tin, tuyên truyền mạnh mẽ để hòng át đi sự phản đối của các nước khác và quốc tế. Truyền thông đối ngoại trở thành công cụ hữu hiệu để Bắc Kinh định hướng, lôi kéo dư luận quốc tế, đồng thời tìm cách thao túng và điều khiển tư duy, hành động của các đối tượng liên quan theo hướng có lợi cho yêu sách “đường chín khúc” của họ trên Biển Đông.

Hiện nay, Trung Quốc tuyên bố yêu sách gần như toàn bộ khu vực Biển Đông, đi cùng đó là những lập luận, bằng chứng phi lý, không có cơ sở trong luật pháp quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Rất dễ để “đọc vị” ra những “tử huyệt” của yêu sách này. Đó là đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc không có bằng chứng pháp lý và lịch sử đáng tin cậy để có thể nhận làm “chủ nhân ông”. Hành vi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một số bãi đá ngầm ở quần đảo Trường Sa năm 1988 là bất hợp pháp; yêu sách đường cơ sở thẳng ở Hoàng Sa, các Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho các thực thể ở Hoàng Sa và Trường Sa; yêu sách “đường chín khúc” tự vẽ đều không hề có một cơ sở nào trong UNCLOS 1982 mà Trung Quốc là thành viên.

Thế nhưng, bất chấp sự phản đối của các nước, Trung Quốc vẫn triển khai các hoạt động trên mọi lĩnh vực để “hiện thực hóa” các yêu sách trên. Trong lĩnh vực pháp lý, nước này ráo riết tiến hành công tác xây dựng nội luật về biển, ban hành nhiều văn bản đi ngược lại luật pháp quốc tế, vi phạm lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác. Trong lĩnh vực quân sự, Trung Quốc đầu tư ồ ạt cho quốc phòng, đẩy mạnh hiện đại hoá Hải quân, phát triển lực lượng chấp pháp và dân binh. Trong lĩnh vực chính trị – ngoại giao, Trung Quốc vẫn thúc đẩy kênh đàm phán song phương, đối thoại ASEAN – Trung Quốc về COC theo hướng có lợi cho Bắc Kinh, thúc đẩy “khai thác chung”, đưa ra sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển”, “cộng đồng chung vận mệnh” trên biển… Trên thực địa, Trung Quốc thường xuyên tổ chức tập trận quy mô lớn, chủ động gây hấn với các bên yêu sách cũng như đẩy mạnh việc thăm dò, khảo sát biển trong vùng biển của các quốc gia khác. Tiêu biểu như việc, Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Trớ trêu, trong tuyên truyền, Bắc Kinh lại luôn rao giảng về một nước Trung Quốc “yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm, tuân thủ pháp luật quốc tế”. Họ luôn “bất an” và lo sợ các chính sách cũng như hành động của mình sẽ làm hoen ố hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế, thúc đẩy các nước cố kết với nhau, hoặc xích lại gần Mỹ và phương Tây để chống lại hoặc tạo ra đối trọng. Vì vậy, Trung Quốc lại càng coi tuyên truyền là mặt trận quan trọng để giảm thiểu và hạn chế những tác động trái chiều từ yêu sách và cách hành xử phi nghĩa của họ. Theo đó, các hoạt động tuyên truyền của Trung Quốc vừa phục vụ mục đích chính trị vụ lợi, “biện minh” cho những yêu sách phi lý về Biển Đông; lại vừa truyền bá về hình ảnh một Trung Quốc “chính nghĩa, yêu hòa bình” và “hành xử như một nước lớn có trách nhiệm trong khu vực”. Song trên thực tế, lời nói và hành động của Trung Quốc thường không tương thích với nhau, “nói vậy, nhưng không phải vậy”.

Lịch sử cho thấy, chính sách tuyên truyền về Biển Đông của Trung Quốc phát triển qua nhiều giai đoạn và ngày càng tinh vi hơn. Trong từng thời kỳ, Trung Quốc lại chú trọng các nội dung khác nhau về Biển Đông nhằm “tối đa hóa” lợi ích của nước này. Sau năm 1949, Trung Quốc chủ yếu tập trung vào Hoàng Sa, Trường Sa để tuyên truyền, bởi lúc này họ mới “lập quốc”, năng lực biển đang còn yếu kém. Sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa năm 1974 và thành lập Khu hành chính Hải Nam để thực thi yêu sách trái phép của nước này ở Biển Đông, Trung Quốc đã dần chuyển sang đa dạng hóa thông tin, tuyên truyền về Biển Đông, không chỉ tuyên truyền về quan điểm, lập trường về “chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa”, mà còn tuyên truyền cả các chủ đề khác như tài nguyên trên Biển Đông, đặt tên cho các thực thể trên Biển Đông. Sau khi “thôn tính” một phần Trường Sa năm 1988, Trung Quốc lại hướng đến rao giảng về “láng giềng hữu nghị” và “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Từ năm 2009 đến nay, Trung Quốc chú trọng đến tuyên truyền về “đường chín khúc”, phản bác sự can dự của Mỹ và các cường quốc khác vào Biển Đông, phê phán và bác bỏ phán quyết của PCA… Có thế thấy, nội dung tuyên truyền qua từng giai đoạn luôn luôn nhất quán với chính sách “bành trướng” ở Biển Đông nói chung của Trung Quốc.

Trong bối cảnh tình hình Biển Đông ngày càng phức tạp, chính sách Biển Đông của Trung Quốc ngày càng bị nhiều nước chỉ trích và hình ảnh Bắc Kinh “bá quyền” ngày càng hiện rõ trong mắt công luận, Bắc Kinh càng có nhu cầu khẳng định “chủ quyền”, lèo lái dư luận và xây dựng hình ảnh “nước lớn có trách nhiệm, có chính nghĩa”. Do đó, họ thực hiện chiến lược tuyên truyền về Biển Đông một cách toàn diện, bài bản, đầy đủ theo những định hướng chủ yếu sau: (1) Khẳng định “chủ quyền”, quyền lợi trên Biển Đông và quyết tâm không từ bỏ “chủ quyền”, bênh vực triệt để cho yêu sách của Trung Quốc; (2) Phản bác yêu sách và lập luận của các bên yêu sách khác, vu cáo các bên trong tranh chấp vi phạm “chủ quyền” của Trung Quốc hòng cố tình biến các vùng biển của các nước khác thành vùng tranh chấp; (3) Cổ súy cho chính sách giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhấn mạnh biện pháp song phương, nhấn mạnh “thiện chí” của Trung Quốc; (4) Biện minh, lấp liếm cho các hành vi gây hấn, cực đoancủa Trung Quốc, trấn an quốc tế rằng họ không làm ảnh hưởng đến tự do hàng hải; (5) Tố cáo, phản đối bên thứ ba can dự, lôi kéo các nước khu vực, vu cáo họ “làm phức tạp tranh chấp”.

Trên cơ sở những định hướng này, Trung Quốc “nhào nặn”, tạo dựng các sản phẩm tuyên truyền khác nhau, sử dụng tối đa các nguồn phát và kênh truyền dẫn để chuyển thông điệp đến với đông đảo công chúng trong nước và quốc tế. Có thể thấy, các nội dung tuyên truyền của Trung Quốc là có chủ đích, thường chỉ một chiều, không hướng đến tranh luận và thuyết phục mà chủ yếu tìm cách xáo trộn tư duy và nhận thức bằng “nhồi nhét” quan điểm của Trung Quốc và sử dụng các kỹ thuật truyền thông nhằm thao túng dư luận. Trung Quốc không chỉ muốn các nước, dư luận, công chúng hiểu quan điểm, lập trường của mình mà còn muốn họ “nghĩ theo cách nghĩ” của Bắc Kinh, hướng tới ủng hộ chính sách của nước này, hoặc chí ít là im lặng, không phản đối. Các chuyên gia về tuyên truyền của các nước đều có chung nhận xét: Có thể coi tuyên truyền của Trung Quốc về Biển Đông là “tuyên truyền đen”.

Về các kênh tuyên truyền, có thể kể đến các kênh tuyên truyền sau: (1) Sách báo, tạp chí nghiên cứu, ấn phẩm in hiện nay vẫn là một trong những kênh tuyên truyền phổ biến nhất của Trung Quốc. Theo thống kê sơ bộ trên trang mạng của Thư viện Quốc gia Trung Quốc (NLC), tính đến nay, Trung Quốc đang lưu trữ khoảng hơn 125.188 bài báo viết và báo cáo về Biển Đông; khoảng hơn 1.000 cuốn sách viết về Biển Đông bằng tiếng Trung và khoảng 250 đầu sách bằng tiếng Anh về Biển Đông đã được xuất bản. Số bài nghiên cứu của Trung Quốc về Biển Đông được đăng trên tạp chí cũng tăng dần qua các năm. Đặc biệt là năm 2016, trong bối cảnh vụ kiện trên Biển Đông được công bố mà phần thua thuộc về Trung Quốc, đã có tới 1.751 bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí được cho là “khoa học” khác nhau. Đáng chú ý, Trung Quốc còn bỏ ra khá nhiều tiền để thuê học giả viết bài, mua cổ phần, tiến tới sở hữu các tờ báo có tiếng, mua chuyên mục trên các báo có uy tín… để truyền bá các quan điểm, thông tin mà Trung Quốc mong muốn. (2) Phát thanh, truyền hình vẫn là những kênh tuyên truyền được đầu tư lớn. Hiện nay, ở Trung Quốc có 187 đài truyền hình và 2.269 đài phát thanh và truyền hình với độ bao phủ rộng khắp 98,88% diện tích cả nước. Đài Phát thanh Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) là đài phát thanh truyền hình phổ biến nhất hiện nay tuyên truyền về Biển Đông, chủ yếu trên kênh CCTV4 – kênh chuyên phát sóng những chương trình truyền hình quốc tế. Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc (CRI) là kênh phát thanh tuyên truyền đối ngoại quan trọng nhất của Trung Quốc cũng duy trì phát thanh vấn đề Biển Đông trên hai kênh FM 101 và FM 102. Có những bộ phim hoạt hình dài hơn 1,5 giờ, nhưng “đường chín khúc” chỉ xuất hiện có 4 giây. Thời gian tuyên truyền không dài, nhưng đó lại là cách thức tuyên truyền rất tinh vi của Trung Quốc. (3) Kênh internet, gồm các websites, mạng xã hội như Weibo, Weixin, Twitter… là công cụ tuyên truyền hết sức nhanh chóng và tác động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân Trung Quốc. Theo thống kê, hiện nay ở Trung Quốc, người dùng thiết bị di động truy cập tin tức qua Weixin chiếm 35%, qua Weibo chiếm đến 20%. Do đó, việc lan toả tin tức về Biển Đông qua những trang mạng xã hội này trở nên phổ biến. Không những thế, những ứng dụng mạng xã hội này ở Trung Quốc có quy trình kiểm soát thông tin bên ngoài chặt chẽ, do đó tránh được những luồng tin từ nước ngoài lan toả vào Trung Quốc, cũng như có sự thống nhất trong luồng thông tin tuyên truyền từ trên xuống dưới ở đất nước này. (4) Thông qua nhiều dạng sản phẩm, hoạt động và sự kiện như hội thảo quốc tế, hội chợ du lịch, sự kiện thể thao, các cuộc triển lãm, cuộc thi, các chuyến tham quan, các tác phẩm phim ảnh, nghệ thuật… Trung Quốc luôn tận dụng vai trò chủ nhà, vai trò nhà tài trợ để định hình chương trình nghị sự, nắm vai trò dẫn dắt để tuyên truyền về Biển Đông theo hướng có lợi cho họ. Các bộ phim của Trung Quốc như Điệp vụ Biển Đỏ, Abominable… là những minh chứng rõ nhất về việc lồng ghép ý đồ chính trị vào các sản phẩm đại chúng. Hiện nay, Trung Quốc đang ngày càng hướng đến việc làm chủ, kiểm soát các nền tảng truyền thông hiện đại để chủ động trong các hoạt động tuyên truyền nhằm phục vụ lợi ích của họ ở Biển Đông.

Tóm lại, để thực hiện ý đồ khống chế và kiểm soát Biển Đông mà không cần dùng tới chiến tranh (điều này Trung Quốc cũng không muốn), ngoài việc gây sức ép về quân sự, ngoại giao và trên thực địa, Trung Quốc đã và đang sử dụng ngày càng mạnh mẽ vũ khí tuyên truyền về Biển Đông, nhất là tuyên truyền yêu sách “đường chín khúc” nhằm hướng lái dư luận, phổ biến những bằng chứng ngụy tạo và các lập luận phi lý, từ đó, xây dựng một hình ảnh Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình” để lấp liếm đi ý đồ “bá quyền”, “bá chủ” thực sự ở bên trong. Đây là loại vũ khí nhìn bên ngoài tưởng chừng như vô hại, nhưng đi sâu vào cách thức triển khai thực hiện cùng mục tiêu, biện pháp, thủ đoạn và hiệu quả mang lại của nó thì quả thực nó là thứ vũ khí rất lợi hại giúp Trung Quốc thực hiện “không đánh mà thắng” ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới