Trung Quốc chuyển một yêu sách quá mức mơ hồ đối với toàn bộ vùng biển (khu vực biển nằm trong “đường lưỡi bò”) thành một yêu sách quá mức mơ hồ khác với khái niệm Tứ Sa.
Đá Subi, một trong các thực thể bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp và quân sự hóa ở Trường Sa. Ảnh: AP.
Quốc vụ viện Trung Quốc hôm 18/4 đã phê chuẩn việc thành lập cái gọi là “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” trực thuộc “thành phố Tam Sa”, tỉnh Hải Nam. Hai “quận” này lần lượt quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang bị chiếm đóng của Việt Nam ở Biển Đông, cũng như bãi Macclesfield và bãi Scarborough, khu vực mà Bắc Kinh gộp chung gọi là “quần đảo Trung Sa”.
Cùng lúc, chính phủ Trung Quốc cũng công bố “danh xưng tiêu chuẩn” cho 80 thực thể ở Biển Đông, bao gồm 50 thực thể nằm ở đáy biển, trong phạm vi lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các nước.
Trước những động thái này, Zing có cuộc trao đổi bàn tròn với các chuyên gia hàng đầu khu vực về quan hệ quốc tế và tình hình Biển Đông, bao gồm tiến sĩ Collin Koh Swee Lean – Trường Quan hệ quốc tế Rajaratnam, Singapore; giáo sư Jay Batongbacal – Đại học Luật, Đại học Philippines; và tiến sĩ Oh Ei Sun – nhà nghiên cứu, nguyên cố vấn chính trị cho thủ tướng Malaysia.
Mưu đồ không suy suyển
– Động thái mới nhất ở Biển Đông cho thấy điều gì về ý định của Bắc Kinh?
– Koh: Đây không phải là những bước “tiến lên” ở Biển Đông như một số người bình luận. Những động thái vừa qua nhất quán với những gì Trung Quốc đã làm trong những năm gần đây, đặc biệt là sau 2012 với việc tăng cường đẩy yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Những động thái này đã được lên kế hoạch từ lâu.
– Batongbacal: Ý định của Bắc Kinh rất rõ ràng về độc chiếm Biển Đông, gây bất lợi cho tất cả những nước khác trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Nam Á từ lâu đã coi đây là vùng biển chung.
Bắc Kinh muốn áp đặt ý chí của mình và tước đoạt quyền của các quốc gia ven biển khác, chiếm đoạt tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ, bất chấp luật pháp quốc tế nói gì và cộng đồng quốc tế nghĩ gì.
– Oh: Tôi nghĩ rằng Trung Quốc muốn gửi thông điệp đến các bên ở Biển Đông, cũng như những người chơi khác như Mỹ, rằng ngay cả trong lúc này, tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông vẫn không hề suy suyển.
– Chiến lược Trung Quốc đang áp dụng ở đây là gì?
– Batongbacal: Đây là những chỉ dấu mới nhất của chiến lược chiếm lĩnh Biển Đông từng bước và lâu dài của Trung Quốc, hy vọng rằng mỗi động thái nhỏ sẽ không thu hút quá nhiều sự chú ý và sẽ bị cộng đồng quốc tế bỏ qua, để đến thời điểm nào đó trong tương lai, họ thể lập luận rằng cộng đồng quốc tế đã chấp nhận và mặc nhiên đồng ý với các hành vi đó.
– Oh: Tôi nghĩ rằng chiến lược chính ở đây là ngăn cản hoặc làm suy giảm khả năng khai thác kinh tế của các bên ở Biển Đông, đến nỗi họ không thể tiếp tục tuyên bố những yêu sách liên quan của mình. Nếu không được như vậy, Trung Quốc sẽ cưỡng ép để cùng khai thác chung.
Chiến lược “Tứ Sa”
– Trước những diễn biến mới nhất ở Biển Đông thì các bên đã tham gia vào “cuộc chiến công hàm” tại Liên Hợp Quốc. Trong đó, Trung Quốc dường như đã tiếp tục vin vào cái gọi là “Tứ Sa”, thay cho “đường lưỡi bò”, để độc chiếm Biển Đông. Việc lập quận, đặt tên nằm trong chiến lược “Tứ Sa” này?
– Batongbacal: Lý thuyết “Tứ Sa” là nỗ lực để tái khẳng định yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc bằng cách chuyển một yêu sách quá mức mơ hồ đối với toàn bộ vùng biển (khu vực Biển Đông nằm trong “đường lưỡi bò”) thành một yêu sách quá mức mơ hồ khác đối với bốn nhóm đảo cùng vùng biển và các thực thể ở giữa và xung quanh chúng. (“Tứ Sa” bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nhóm đảo Pratas hay “quần đảo Đông Sa” theo cách gọi của Trung Quốc, cùng “quần đảo Trung Sa” – PV).
Vì “đường lưỡi bò” không được cộng đồng quốc tế chấp nhận, Trung Quốc đang cố gắng tiếp tục đẩy mạnh yêu sách phi lý của mình nhưng tránh đề cập đến “đường lưỡi bò” phi pháp với hy vọng rằng điều này có thể tránh được sự phản đối hay phản ứng tức thời. Lần này, họ đang nhấn mạnh các nhóm đảo là cơ sở và nguồn gốc của yêu sách phi lý.
Sự nguy hiểm của cả hai yêu sách này là như nhau bởi vì xét tất cả ý định và mục đích, chúng cùng là một yêu sách, chỉ là cách trình bày khác nhau.
Lý thuyết “Tứ Sa” cũng cố tình áp dụng sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 bằng cách tuyên bố rằng mọi nhóm đảo nói trên đều là quần đảo có thể được bao bọc bằng đường cơ sở thẳng như những gì họ đã làm với Hoàng Sa, và rằng thậm chí các khu vực chìm dưới biển cũng có thể được tuyên bố chủ quyền.
Trong trường hợp sau, việc lập ra các “quận” gần đây và đặt tên các thực thể ở Biển Đông với mục đích được cho là khẳng định chủ quyền là nỗ lực để giới thiệu và thực hành lý thuyết “Tứ Sa”. Lý thuyết này cũng sai lầm và vô căn cứ như “đường lưỡi bò” mà thôi.
– Koh: Về mặt lý thuyết, chiến lược “Tứ Sa” có nghĩa là Trung Quốc tuyên bố đường cơ sở quần đảo cho quần đảo Trường Sa, tương tự như cách đã được thực hiện cho quần đảo Hoàng Sa. Nhưng trong thực tế, đây hoàn toàn sẽ là một sự khiêu khích đối với các yêu sách khác và dẫn đến các phản ứng dữ dội.
Trung Quốc có thể chỉ phải đối phó với Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, nhưng sẽ không phải như vậy tại Trường Sa, nơi họ phải đối phó với nhiều bên hơn, và nguy cơ gặp phải phản ứng mạnh mẽ từ ASEAN là rất cao.
Trong mọi trường hợp, tuyên bố đường cơ sở quần đảo đó là một chuyện, thi hành là một chuyện khác. Ngay cả khi Bắc Kinh có ý chí và quyền lực để làm như vậy, điều này đồng nghĩa với việc xâm phạm lợi ích của các bên khác.
Đàm phán COC sẽ ra sao?
– Người ta tin Trung Quốc đang tận dụng khoảng trống chiến lược hiện tại, nhưng một số ý kiến cho rằng ngay cả khi không có tình hình này, Trung Quốc cũng thực hiện các bước đi đó. Các vị có nghĩ rằng vấn đề thời điểm lần này là quan trọng?
– Koh: Dù có hay không có, Trung Quốc vẫn sẽ tiến hành những động thái đó. Điểm khác biệt của lần này là Trung Quốc đang khai thác nó như “cánh cửa cơ hội” để củng cố thêm lợi ích của Trung Quốc.
– Batongbacal: Tình hình hiện tại mang đến cho Trung Quốc những cơ hội mới mà họ đang khai thác để loại bớt trở ngại trong việc thực hiện chiến lược của mình.
Mặc dù đúng là Trung Quốc đã thực hiện các bước này ngay cả khi không khủng hoảng, rõ ràng Trung Quốc đang sử dụng nó để tối đa hóa khả năng mở rộng quyền kiểm soát và giảm thiểu khả năng các quốc gia khác thể hiện mạnh mẽ sự phản đối đối với các động thái của Trung Quốc.
– Động thái của Trung Quốc tác động như thế nào đến nguyên trạng ở Biển Đông và các cuộc đàm phán Bộ quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC)?
– Koh: Những động thái này tiếp tục giúp tăng cường sự kiểm soát thực tế của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, cái gọi là “nguyên trạng” ở Biển Đông lâu nay đã bị đặt dấu hỏi vì hành vi của Trung Quốc. Với việc xây dựng những hòn đảo ở Trường Sa và bình thường hóa hành vi cưỡng ép của họ tại khu vực, Trung Quốc đã làm thay đổi nguyên trạng. Chúng ta chỉ có thể thấy Trung Quốc đang ngày làm xói mòn thêm cái gọi là nguyên trạng này.
Ngoài ra, tình hình hiện tại đã làm chậm tiến độ đàm phán về COC mà ASEAN và Trung Quốc đang theo đuổi.
Chúng ta có thể mong đợi một cuộc trao đổi hợp lý hơn giữa các bên về COC với sự nhìn nhận về những gì Trung Quốc đã làm. Song một lần nữa, Trung Quốc đang sở hữu đòn bẩy với COC – từ lâu họ đã cho thấy họ có khả năng khiến quá trình này diễn ra nhanh hay chậm. Và phần nào đó ASEAN đang ở thế bị động và bất lợi hơn trong quá trình này.
– Batongbacal: Nguyên trạng đã không thay đổi một cách rõ ràng và dồn dập, và đó là mấu chốt trong các bước đi tích tiểu thành đại của Trung Quốc. Sự đối đầu giữa Trung Quốc và các bên trên Biển Đông chỉ là nhất thời nhưng gây ra tác động lâu dài. Đó là khiến các chủ thể ngoài khu vực, chẳng hạn như giới đầu tư – không muốn nghĩ đến việc hợp tác thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở bất cứ đâu tại Biển Đông.
Những động thái của Trung Quốc cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các cuộc đàm phán COC, bởi vì chúng thể hiện ý định thực sự của Trung Quốc và hủy hoại bất cứ sự tin cậy nào đặt vào lập trường và đề xuất của họ.
– Oh: Một thực tế trong quan hệ quốc tế là các quốc gia thường vừa theo đuổi các cuộc đàm phán vừa tạo ra các thực tế vật lý hoặc hành động ở thực địa, trong trường hợp này là trên biển, mặc dù năng lực của mỗi nước rất khác nhau. Vì vậy, tình trạng bế tắc ở Biển Đông sẽ tiếp tục.
Chỉ là “vỏ bọc pháp lý”
– Các động thái mới nhất của Bắc Kinh chắc chắn không giúp ích gì trong việc củng cố cho các yêu sách ngang ngược của họ?
– Koh: Tất nhiên, điều này đúng nếu chỉ xét từ góc độ pháp lý. Song các hành động vật lý ở thực địa là một thực tế – trong khi chúng không giúp củng cố tính hợp pháp cho các yêu sách của Bắc Kinh dưới bất kỳ hình thức nào, thì sự thật là Trung Quốc đang nắm giữ ưu thế vật lý ở Biển Đông, và sẽ chỉ tiếp tục đẩy mạnh điều này dù chúng ta có thích hay không.
Chúng ta có thể hy vọng rằng những bên khác ở Biển Đông vẫn sẽ tiếp tục kiểm soát về mặt vật lý một số phần của Trường Sa và sự hiện diện liên tục của các cường quốc ngoài khu vực đóng vai trò là nhân tố rào cản mạnh mẽ để chống lại Trung Quốc.
– Batongbacal: Từ góc độ luật pháp quốc tế, không có động thái nào trong số này giúp thúc đẩy hoặc củng cố lập trường pháp lý của Trung Quốc. Tại thời điểm này, bất kỳ hành động nào Bắc Kinh thực hiện chỉ là những nỗ lực vị kỷ để tạo ra vỏ bọc pháp lý cho các hoạt động gây tranh cãi của họ. Chúng hoàn toàn không có tính ràng buộc đối với các quốc gia khác.
– Các vị có nghĩ rằng những động thái đó sẽ phản tác dụng đối với Bắc Kinh? Nếu có, theo cách nào?
– Koh: Trong việc làm suy yếu niềm tin với ASEAN và thu hút sự chú ý của quốc tế hơn nữa, thì đúng là những động thái này thực sự phản tác dụng. Song giới tinh hoa Bắc Kinh ít quan tâm đến những điều này hơn là tình hình trong nước mà họ đang phải đối mặt.
– Batongbacal: Đúng. Đặc biệt là vì họ tiến hành giữa lúc này, họ cho thấy Trung Quốc không những không đáng tin cậy mà còn tranh thủ mọi cơ hội để chống lại các nước láng giềng nhỏ hơn, yếu thế hơn, bất chấp luật quốc tế.
ASEAN cần lập “mặt trận đoàn kết”
– Việt Nam và những bên khác ở Biển Đông có thể làm gì để đáp lại những động thái đó?
– Batongbacal: Các bên ở Đông Nam Á khác nên trao đổi thẳng thắn thông tin và quan điểm về lợi ích chung của họ cũng như những gì họ muốn đạt được.
Họ cũng nên thống nhất và thể hiện lập trường với tư cách một nhóm vì rất rõ ràng rằng từng cá nhân có rất ít cơ hội đạt được bất cứ điều gì với Trung Quốc. Song nếu là một nhóm, họ có thể mạnh hơn và có được nhiều đòn bẩy hơn, đặc biệt là khi chính họ đã tự nhìn thấy chính Trung Quốc không hề kiềm chế trong việc mở rộng quyền kiểm soát ở Biển Đông.
Ỏ đây, liên quan tới Philippines, tôi muốn thêm là công hàm ngày 22/4 cho thấy bất chấp những gì thể hiện ra bên ngoài, quan hệ Trung Quốc – Philippines không gần gũi và thân thiết như Trung Quốc cố gắng phác họa. Nó cũng thể hiện sự hai mặt trong ngoại giao của Trung Quốc: Trong khi nói Philippines là quốc gia thân thiện, Trung Quốc cũng tiến hành các hành động khiêu khích và thù địch chống lại Philippines trên biển.
– Oh: Một thực tế khác trong chính trị quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia khá đa dạng, không chỉ có khía cạnh chính trị và ngoại giao mà cả kinh tế xã hội. Hầu hết các bên ở Biển Đông là đối tác thương mại lớn của Trung Quốc, và họ cần thị trường cũng như vốn đầu tư lớn của Trung Quốc cho sự phát triển kinh tế của họ.
– Koh: Lý tưởng nhất là chúng ta có một mặt trận ASEAN đoàn kết trong vấn đề này, hoặc một mặt trận đoàn kết giữa các bên yêu sách ở Biển Đông trong ASEAN.
Trước tiên, ASEAN cần phải cùng nhau hành động và ít nhất là trong cuộc đàm phán COC, hãy đàm phán cùng Trung Quốc với tư cách một khối thay vì Bắc Kinh đàm phán riêng rẽ với 10 quốc gia thành viên ASEAN. Tuy nhiên, đây là một quá trình dài hơi.
Bên cạnh đó, các bên trong ASEAN cần phải công khai lập trường về Biển Đông một cách vững chắc, bắt đầu tập trung xây dựng lực lượng có thể đối phó với các hoạt động cưỡng ép của Trung Quốc ở “vùng xám” trên biển. Họ cũng cần tăng cường khả năng phục hồi kinh tế bằng cách đa dạng hóa thị trường và đầu tư từ Trung Quốc để giảm nguy cơ rơi vào tình trạng ép buộc kinh tế hoặc bẫy nợ của Bắc Kinh.