Friday, November 15, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNỗ lực ngăn chặn các hành động của TQ ở Biển Đông

Nỗ lực ngăn chặn các hành động của TQ ở Biển Đông

Nguy cơ đối đầu quân sự ở Biển Đông liên quan đến Mỹ và Trung Quốc có thể tăng lên đáng kể trong những tháng tới, đặc biệt nếu mối quan hệ của cả hai nước tiếp tục xấu đi vì những xung đột thương mại đang diễn ra và những lời buộc tội về đại dịch.

Tập Cận Bình có thể cảm thấy buộc phải tăng tốc các mốc hoạch định của mình ở Biển Đông để duy trì vị thế hạt nhân của mình trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là nếu tình hình chính trị ở Hồng Kông xấu đi, việc thống nhất hòa bình với Đài Loan trở nên ít có khả năng hơn, hoặc chỉ trích trong nước về việc lãnh đạo, quản lý làm gia tăng lây lan của dịch Covid-19.

Với sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vào năm 2020 dự kiến chỉ đạt 1,2%, mức thấp nhất kể từ giữa những năm 1970, Tập Cận Bình có thể thấy cần phải chứng minh sức mạnh trong khi Bắc Kinh đối phó với sự sụp đổ kinh tế từ đại dịch. 

Thời gian qua, Trung Quốc đã triển khai một loạt các hoạt động cả trên thực địa, pháp lý, truyền thông như: tuyên bố thành lập hai quận mới thuộc thành phố Tam Sa, công bố tên gọi 25 đảo, đá san hô và 55 thực thể ngầm ở Biển Đông, tiến hành diễn tập quân sự, đẩy mạnh tuần tra chấp pháp, chỉ trích hoạt động tự do hàng hải (FONOPs) của Mỹ tại Biển Đông…

Hơn nữa, với kỳ vọng rằng giai đoạn đầu tiên của những nỗ lực hiện đại hóa quân đội sẽ được hoàn thành vào năm 2020, Trung Quốc có thể tin tưởng hơn sẽ thành công trong việc thúc đẩy các yêu sách của mình về mặt quân sự, đặc biệt là nếu Mỹ bị phân tâm trong việc quản lý đại dịch hoặc phải đối phó với hậu quả kinh tế.

Trong khi đó, Mỹ luôn tỏ ra quan tâm đến việc duy trì uy tín của mình như một đối tác đáng tin cậy và bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực. Do đó, Mỹ sẽ bảo vệ các đồng minh và các hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông.

Để kiềm chế, ngăn chặn các hoạt động nhằm độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, Mỹ nên thực hiện các biện pháp sau đây:

– Tăng cường các hoạt động quân sự ở Biển Đông với các quốc gia có cùng chí hướng như Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Singapore,… để bù đắp cho các nguồn lực hạn chế trong khu vực. Hải quân Mỹ và hải quân các nước nên tuần hành qua vùng biển tranh chấp thường xuyên hơn và thường xuyên hóa các FONOP.

Động thái này nhằm báo hiệu cho Trung Quốc rằng Mỹ và đồng minh không tôn trọng các yêu sách lãnh thổ quá mức của Trung Quốc. Không quân Mỹ cũng nên áp dụng vai trò tích cực hơn trong việc thực hiện phiên bản FONOP của riêng mình để thách thức các yêu sách song song của Trung Quốc đối với không phận phía trên Biển Đông.

Hơn nữa, quân đội Mỹ nên tiếp tục thực hiện việc không cung cấp thông báo trước về hoạt động quân sự của mình. Nếu báo trước sẽ tạo ra ấn tượng rằng quân đội Mỹ tuân thủ luật pháp trong nước của Trung Quốc, tạo cảm tưởng là Mỹ hỗ trợ các yêu sách của Trung Quốc. 

Nếu có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang cân nhắc hành động quân sự chống lại các bên yêu sách khác trong tranh chấp khu vực, Mỹ cũng nên cứng rắn hơn để thiết lập lại sự răn đe. Ví dụ, Mỹ cần gửi các tàu của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển và Hải quân Mỹ để tuần tra ngăn chặn Trung Quốc chiếm lấy Bãi cạn Scarborough.

– Phản ứng ngay lập tức và tương xứng với từng hành động gây hấn của Trung Quốc trong các vùng biển này, bất kể mục tiêu của nó là gì. Tùy thuộc vào hành vi và các quốc gia liên quan, Mỹ nên đáp trả bằng cách đưa ra tuyên bố, tiến hành diễn tập quân sự hoặc gây áp lực ngoại giao.

Tuy nhiên, câu trả lời không nên được xác định bởi các lực lượng hoặc tổ chức của Trung Quốc có liên quan; thay vào đó, Mỹ nên đáp trả các tàu bảo vệ bờ biển và các tàu cá dân quân của Trung Quốc giống như cách đối với một tàu hải quân Trung Quốc.

Hơn nữa, Mỹ nên chắc chắn đáp trả ngay cả khi vụ việc liên quan đến một nước không ký hiệp ước đồng minh với Mỹ, vì điều này nhấn mạnh rằng Mỹ nghiêm túc trong việc bảo vệ các quy tắc quốc tế, bất kể ai là người vi phạm và bản chất của vi phạm.

– Nâng cao chất lượng của các khả năng trinh sát và giám sát hàng hải của các nước tranh chấp tại Biển Đông. Bước này sẽ giúp ngăn chặn Trung Quốc bằng cách cải thiện thời gian cảnh báo của các bên yêu sách và khả năng thực hiện phản ứng phối hợp với các nỗ lực của Trung Quốc để thay đổi hiện trạng. Các biện pháp như vậy về cơ bản là phòng thủ và sẽ ít khiêu khích đối với Bắc Kinh hơn các biện pháp tấn công. Mỹ cũng nên thực hiện các nhiệm vụ an ninh phi truyền thống như viện trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa.

– Đề xuất các yếu tố của một thỏa thuận có thể chấp nhận và bền vững sẽ giúp tránh và làm xuống thang một cuộc đối đầu. Sẽ không thành công nếu tiến hành leo thang quân sự trong một cuộc khủng hoảng để buộc Trung Quốc từ bỏ lợi ích của mình. Thay vào đó, Mỹ nên tìm cách thuyết phục Trung Quốc rằng các hành động của họ sẽ rất tốn kém.

Một cách để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc là theo đuổi các thỏa thuận kiểm soát vũ khí nhằm hạn chế khả năng của Trung Quốc hoặc các thỏa thuận để giải quyết các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông sẽ làm giảm ham muốn sử dụng vũ lực. Mỹ cũng nên tìm kiếm sự nhượng bộ từ Trung Quốc trong việc giải thích các quyền hàng hải và do đó buộc Trung Quốc phải giải thích các hoạt động của họ trong việc hạn chế tự do hàng hải.

– Thiết lập một bộ quy tắc ứng xử với các quốc gia có cùng chí hướng và yêu cầu Trung Quốc ký kết. Nếu Bắc Kinh từ chối hành động theo các quy tắc này, Washington nên thành lập một liên minh để hạn chế rộng rãi quyền truy cập của Trung Quốc vào công nghệ và thông tin liên quan. Washington thậm chí nên đe dọa trục xuất Bắc Kinh khỏi các cơ quan quốc tế có liên quan.

– Chỉ định một đặc phái viên về các vấn đề Biển Đông. Một đặc phái viên có thể giúp Mỹ cải thiện sự phối hợp ngoại giao với các nước Đông Nam Á, tạo điều kiện cải thiện kết nối giữa các chủ thể khu vực và đàm phán thỏa thuận được đề xuất ở trên. Đặc phái viên này nên là một người phát ngôn cá nhân của Tổng thống để báo hiệu tầm quan trọng của vấn đề Biển Đông đối với Mỹ và nên phối hợp với Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao thông qua các cơ chế của Hội đồng An ninh Quốc gia.

Đặc phái viên nên đàm phán với đại diện của các nước Đông Nam Á để thiết lập những kỳ vọng chung về quyền hàng hải và hành vi hàng hải được chấp nhận. Sau đó, Mỹ và các đồng minh nên đưa ra các sáng kiến ngoại giao và pháp lý để gây áp lực với Trung Quốc nếu vi phạm những thỏa thuận này. Đặc phái viên nên tạo điều kiện cho sự phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực nếu Trung Quốc có hành động quân sự trực tiếp hơn.

Lý tưởng nhất, những biện pháp này sẽ đủ để ngăn chặn sự leo thang của quân đội dẫn đến một cuộc đối đầu. Nếu những nỗ lực trước đó để ngăn chặn các hành động và hoạt động mạnh mẽ hơn của Trung Quốc thất bại, Mỹ nên thực hiện các bước sau để khôi phục tính răn đe và hạn chế lợi ích của Trung Quốc hơn nữa.

– Tăng cường khả năng phòng thủ của các bên yêu sách Biển Đông khác. Mỹ nên xem xét lại lập trường trung lập của mình đối với các yêu sách Biển Đông và hỗ trợ các nước yêu sách khác chống lại Trung Quốc.

Nó có thể giúp các quốc gia Đông Nam Á tăng cường khả năng chống tiếp cận, bao gồm cải thiện mạng lưới tình báo, giám sát và củng cố các cơ sở trên đảo, để cảnh báo và bảo vệ chống lại các hành động xâm lược của Trung Quốc. Mỹ cũng nên đề nghị triển khai các đơn vị phòng thủ từ Mỹ và lý tưởng nhất là từ các đồng minh đến các quốc gia duyên hải Biển Đông.

– Tìm kiếm sự tiếp cận quân sự đến các cơ sở đối tác mới ở Biển Đông. Để thể hiện quyết tâm của Mỹ và khả năng bảo vệ tự do hàng hải và hàng không, Mỹ nên báo hiệu sự sẵn sàng mở rộng sự hiện diện quân sự của mình ở các quốc gia Đông Nam Á khác và thậm chí trên hoặc xung quanh một số đảo tranh chấp nếu Trung Quốc không trở lại hiện trạng trước đó hoặc cam kết một thỏa thuận duy trì hòa bình trong tương lai.

Các quốc gia trong khu vực sẽ phải đối mặt với những khó khăn chính trị để cấp quyền truy cập cho quân đội Mỹ, nhưng một cuộc khủng hoảng hoặc xung đột có thể làm cho việc đó trở nên khả thi hơn. Sẽ có lợi cho Mỹ khi đạt được thỏa thuận với các bên yêu sách cho phép các lực lượng Mỹ đến thăm hoặc luân chuyển qua các đảo chiến lược ở Biển Đông.

– Duy trì liên lạc khủng hoảng mở với Bắc Kinh để tránh hiểu nhầm và xung đột không cần thiết. Trước khi một cuộc xung đột nổ ra, Washington nên tuyên bố sẵn sàng nói chuyện tại bất kỳ thời điểm nào và sẵn sàng thiết lập các kênh và giao thức rõ ràng trong giai đoạn sớm nhất của một cuộc khủng hoảng. Việc trao đổi khủng hoảng hiện tại có thể không đủ, Washington nên cố gắng mở rộng chúng.

Bắc Kinh có khả năng kháng cự, nhưng điều này không có nghĩa là lãng phí ỗ lực. Nếu tình hình leo thang, Mỹ cần có khả năng chứng minh với các quốc gia khác trong khu vực rằng họ đã rất nỗ lực để tránh xung đột.

Chiến lược hiệu quả nhất của Mỹ nên kết hợp các sáng kiến ngoại giao với tư thế răn đe mạnh mẽ hơn trong khu vực. Tuy nhiên, để bất kỳ sáng kiến nào thành công, Mỹ sẽ cần một chiến lược lâu dài để ngăn chặn sự xâm lược của Trung Quốc, để đáp trả nếu một cuộc đối đầu xảy ra và, nếu cần, để đánh bại Trung Quốc trong một cuộc xung đột quân sự.

Để thành công, cần đòi hỏi sự đồng thuận giữa hai đảng ở Mỹ và một thỏa thuận rằng việc duy trì Biển Đông tự do và mở là rất quan trọng đối với lợi ích quốc gia của Mỹ. Quốc hội đã đạt được một số tiến bộ về vấn đề này, với Đạo luật trừng phạt Biển Hoa Đông và Biển Đông năm 2019, nhưng điều đó là không đủ.

Ngăn chặn Trung Quốc giành quyền kiểm soát các vùng biển quan trọng này phải là ưu tiên hàng đầu của Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao. Nếu không có mức độ chú ý này, Mỹ khó có thể thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ lợi ích của Mỹ và các đồng minh trong khu vực, đồng thời ngăn cản Trung Quốc theo đuổi các lựa chọn quân sự.

RELATED ARTICLES

Tin mới