Ngày 30/3/2020, Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc đã gửi Công hàm số 22/HC-2020 tới Tổng thư ký Liên hợp quốc, trình bày một cách có hệ thống về lập trường của Việt Nam đối với các vấn đề pháp lý chính liên quan đến vấn đề chủ quyền trên Biển Đông. Ngày 10/4/2020, Việt Nam tiếp tục gửi hai Công hàm số 24/HC-2020 và 25/HC-2020 lên Tổng thư ký Liên hợp quốc lần lượt nêu ý kiến về báo cáo của Malaysia và về các công hàm của Philippines. Các Công hàm trên được gửi tới Liên hợp quốc khi mà cuộc chiến pháp lý ở Biển Đông trở nên “nóng” hơn bởi Malaysia đơn phương nộp báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng (ECS) khu vực phía Bắc biển này lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc. Trên thực địa, tình hình cũng trở nên căng thẳng, phức tạp hơn, đặc biệt là sau việc tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 và các tàu cá của Trung Quốc xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của nhiều quốc gia ven biển, trong đó có Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Ba công hàm nói trên của Việt Nam đã nêu rõ yêu sách, lập trường của Việt Nam trong việc phản hồi công hàm của các bên yêu sách khác; khẳng định lập trường nhất quán đối với nhiều vấn đề tranh chấp trên Biển Đông với rất nhiều điểm tương đồng với Phán quyết năm 2016 của Toà Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) và thể hiện quan điểm đối với các vấn đề mới phát sinh. Nhất là đối với các công hàm trước đó của Trung Quốc gửi Liên hợp quốc có những nội dung vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam ở Biển Đông. Song về tổng thể, việc gửi và lưu hành Công hàm của Việt Nam là phản ứng ngoại giao bình thường và tất yếu trước các tuyên bố chính trị và ngoại giao có thể gây phương hại tới quyền lợi chính đáng của Việt Nam tại Liên hợp quốc, một diễn đàn đa phương quan trọng nhất trên thế giới. Đặc biệt trong đó, Công hàm số 22/HC-2020 đã trình bày rõ quan điểm của Việt Nam liên quan đến ba vấn đề:
Thứ nhất, Việt Nam phản đối yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông vì nó vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
Sau khi PCA ra phán quyết ngày 12/7/2016, Trung Quốc ngay lập tức đã tung ra luận điểm yêu sách “Tứ Sa” hòng thay thế yêu sách “đường chín khúc” bị PCA bác bỏ. Trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cùng ngày PCA ra phán quyết và Sách trắng “Trung Quốc kiên trì giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines thông qua đàm phán” của Quốc Vụ viện Trung Quốc ra ngày 13/7/2016, một ngày sau phán quyết của PCA, lần đầu tiên Trung Quốc đề cập tới lập trường về “Nam Hải chư đảo” (các đảo ở Biển Đông). Với “Nam Hải chư đảo” và “Tứ Sa”, Bắc Kinh đã điều chỉnh yêu sách chủ quyền về Biển Đông với những điểm đáng chú ý sau: (1) Họ đòi “chủ quyền” đối với bốn nhóm đảo gồm Đông Sa (Pratas), Tây Sa (Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam), Nam Sa (Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam) và Trung Sa (bãi ngầm Macclesfields, là một bãi ngầm hoàn toàn nằm dưới nước ngay cả khi thủy triều xuống thấp). Bắc Kinh gọi bốn nhóm đảo này là “Nam Hải chư đảo”; (2) Họ yêu sách đầy đủ các vùng biển gồm nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các nhóm đảo này; (3) Họ đòi có “quyền lịch sử” ở Biển Đông.
Bên cạnh lập trường chính thức nêu trên về “Nam Hải chư đảo”, Trung Quốc còn yêu sách chủ quyền với các bãi ngầm và các cấu trúc lúc chìm lúc nổi ở Trường Sa, Macclefields, thậm chí cả với những bãi ngầm nằm hoàn toàn trong thềm lục địa phía Nam của Việt Nam như bãi Tư Chính; xác lập đường cơ sở bao quanh các nhóm đảo để từ đó yêu sách đầy đủ các vùng biển, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ “đường cơ sở quần đảo” như một quốc gia quần đảo.
Có thể đánh giá, yêu sách “Tứ Sa” và lập trường “Nam Hải chư đảo” là nguy hiểm vì nó kéo theo nhiều hệ luỵ nghiêm trọng hơn yêu sách “đường chín khúc”. Tuy nhiên, giống như “đường chín khúc”, “Tứ Sa” cũng không có gì phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với các bãi ngầm ở Biển Đông, quy thuộc chúng thành quần đảo để từ đó xác lập đầy đủ các vùng biển bao quanh là hoàn toàn trái với UNCLOS 1982. Bởi theo quy định, các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm, lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng. Bên cạnh đó, ý đồ xác lập đường cơ sở thẳng quanh các nhóm đảo của Trung Quốc cũng hoàn toàn không có cơ sở. Điều 46 – 47 UNCLOS 1982 chỉ được áp dụng với trường hợp quốc gia quần đảo, trong khi Trung Quốc là một quốc gia lục địa. Hơn nữa, Trung Quốc hoàn toàn không được phép xác lập hệ thống đường cơ sở đối với các thực thể thuộc chủ quyền của quốc gia khác. Đây là sự vi phạm chủ quyền của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS 1982. Nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá, “Tứ Sa” là chiến thuật pháp lý mới của Trung Quốc thông qua việc cố gắng sử dụng ngôn ngữ của UNCLOS 1982 để hợp thức hoá các yêu sách trên biển, nhưng với cách thức áp dụng lập lờ, có lựa chọn theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Thực chất, “Đường chín khúc” hay “Tứ Sa” đều là những yêu sách không có cơ sở pháp lý và thể hiện tham vọng bành trướng trên Biển Đông của Trung Quốc. Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với quy định của UNCLOS 1982.
Thứ hai, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Đây là lập trường nhất quán đã được Việt Nam khẳng định trong các văn bản pháp lý cũng như nhiều lần nêu trong các văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan.
Thứ ba, UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Kể từ khi chính thức có hiệu lực vào năm 1994, UNCLOS 1982 luôn khẳng định vai trò là “Hiến pháp của biển và đại dương”, điều chỉnh mọi vấn đề liên quan đến luật biển. Với 168 thành viên tham gia, UNCLOS 1982 là điều ước quốc tế phổ cập lớn thứ hai, chỉ xếp sau Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trật tự pháp lý trên biển. Vì thế, trong Công hàm ngày 30/3/2020, Việt Nam đã dựa vào UNCLOS 1982 để xác lập các vùng biển, đồng thời ủng hộ cách tiếp cận của PCA trong vụ kiện Biển Đông ở các nội dung quan trọng sau:
Một là, vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121(3) của UNCLOS 1982. Theo Điều này, đảo đá không thích hợp cho con người sinh sống hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. PCA trong vụ kiện Biển Đông lần đầu tiên giải thích Điều 121(3) và đi đến kết luận rằng, tất cả các cấu trúc nổi ở Trường Sa đều không có khả năng cho con người sinh sống hoặc duy trì đời sống kinh tế riêng, do đó, không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Hai là, các nhóm đảo tại Biển Đông (bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa) không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất. Hoàng Sa và Trường Sa không phải là quốc gia quần đảo để được áp dụng cách vẽ đường cơ sở quần đảo theo UNCLOS 1982, do đó không thể xác lập hệ thống đường cơ sở quần đảo bằng cách vẽ nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất. Tinh thần này đã từng được Việt Nam khẳng định trong Tuyên bố phản đối hệ thống đường cơ sở thẳng của Trung Quốc đối với Hoàng Sa năm 1996. Trong vụ kiện của Philippines, PCA đã kết luận rằng, bất cứ cách vẽ đường cơ sở thẳng nào ở Trường Sa cũng trái với UNCLOS 1982. Trên thực tế, cấu trúc địa lý của Hoàng Sa và Trường Sa có những điểm tương đồng, do đó, việc Việt Nam áp dụng cách tiếp cận của PCA đối với các thực thể ở Hoàng Sa là phù hợp.
Ba là, các bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm, lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng. Hiện nay, Trung Quốc yêu sách chủ quyền với một số bãi ngầm hoặc cấu trúc lúc chìm, lúc nổi ở Biển Đông. Điều này hoàn toàn không được UNCLOS 1982 cho phép vì theo quy định, các bãi ngầm hoặc các cấu trúc lúc chìm, lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng. Phán quyết của PCA năm 2016 cũng kết luận rằng, các thực thể như Vành Khăn (Mischief reef), Cỏ Mây (Second Thomas Shoal), Xubi (Subi reef), Nam Gaven (Gaven reef/South), Tư Nghĩa (Hughes reef)… là các cấu trúc lúc chìm, lúc nổi, không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ, không có vùng biển riêng.
Bốn là, Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn quy định tại UNCLOS 1982, trong đó có yêu sách quyền lịch sử, các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định lập trường này. Ngày 12/9/2019, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “UNCLOS 1982 đã xác định rõ phạm vi và là cơ sở pháp lý duy nhất để các quốc gia xác định quyền hưởng các vùng biển của mình. Điều này đã được các quốc gia tuân thủ, thừa nhận bởi các thực tế xét xử cũng như sự đồng tình rộng rãi của các luật sư có uy tín quốc tế. Do đó, không có nước nào có thể đưa ra các yêu sách về các vùng biển ở khu vực Biển Đông vượt quá những giới hạn về mặt địa lý và nội dung được quy định trong UNCLOS 1982. Những yêu sách bất hợp pháp, không phù hợp với UNCLOS 1982 không thể là cơ sở để khẳng định rằng có tồn tại các vùng biển tranh chấp hay chồng lấn”.
Về điểm này, Công hàm của Việt Nam đã phản ánh tinh thần của phán quyết của PCA năm 2016. Theo kết luận của PCA, yêu sách về “quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật nằm trong “đường chín khúc” là không phù hợp với quy định của UNCLOS 1982. PCA cho rằng, yêu sách đó vượt quá giới hạn vùng biển của Trung Quốc mà UNCLOS 1982 cho phép. Trên thực tế, yêu sách “quyền lịch sử” trong “đường chín khúc” của Trung Quốc đã bị cộng đồng quốc tế lên án. Gần đây, ngày 09/4/2020, Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố phản đối các yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông và khẳng định, ủng hộ kết luận của PCA rằng, “đường chín khúc của Trung Quốc là yêu sách biển bất hợp pháp.”
Công hàm số 22/HC-2020 của Việt Nam gửi lên Tổng thư ký Liên hợp quốc ngày 30/3/2020 có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, Công hàm phản đối một cách hệ thống các yêu sách không phù hợp với luật pháp quốc tế của Trung Quốc, bao gồm yêu sách “đường chín khúc” và yêu sách “Tứ Sa”. Các yêu sách đó hoàn toàn trái với quy định của UNCLOS 1982, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông. Nội dung Công hàm được xây dựng dựa trên các quy định của UNCLOS 1982, đồng thời phù hợp với kết luận quan trọng của PCA năm 2016 dù theo quy định, phán quyết chỉ có giá trị ràng buộc với các bên liên quan. Là quốc gia trực tiếp liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông, kể từ khi vụ kiện Biển Đông bắt đầu, Việt Nam luôn theo dõi sát diễn biến vụ kiện, mong muốn PCA sẽ đưa ra phán quyết công bằng, khách quan, ủng hộ giải quyết tranh chấp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và ủng hộ việc tuân thủ, thực thi đầy đủ UNCLOS 1982.
Có thể nói, các công hàm của Việt Nam lần này đã thể hiện lập trường nhất quán, rõ ràng và toàn diện trong vấn đề Biển Đông. Việt Nam kiên quyết, kiên trì khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán cùng các quyền lợi chính đáng khác của mình ở Biển Đông. Với chủ trương coi UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, Việt Nam một lần nữa chứng minh trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ luật pháp quốc tế nói chung, UNCLOS 1982 nói riêng, từ đó góp phần vào việc đảm bảo trật tự pháp lý trên Biển Đông. Cho dù đại dịch Covid-19 chưa qua đi, nhưng cả ba công hàm của Việt Nam không vì thế mà bị “chìm xuồng”. Ngược lại, cũng nhờ vào đại dịch, cùng với cộng hưởng những hành động ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông trong thời gian gần đây, cả ba công hàm ấy đang có sức lan toả trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc trên mặt trận pháp lý ở Biển Đông.