Năm nay, sự kiện Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (PCA) ra phán quyết bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông ít được nhắc tới hơn năm ngoái dù trên thực tế, cũng đã có một số động thái “qua lại” giữa các bên, cả trên truyền thông lẫn trên biển.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân trong cuộc họp báo thứ tư tuần rồi 13-7 tuyên bố cao giọng như thường lệ, phủ định tất cả:
“Cái gọi là phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển. Điều đó là bất hợp pháp, vô hiệu và vô nghĩa”.
Ông Uông giữ nguyên thái độ cố hữu: “Trung Quốc không chấp nhận, không công nhận và sẽ không bao giờ chấp nhận bất kỳ yêu sách hoặc hành động nào dựa trên phán quyết này”. Nói cách khác, Trung Quốc mới là luật, còn tất cả, kể cả PCA, đều là con số không.
Tránh va chạm trực tiếp
Chẳng qua hôm ấy Bộ Ngoại giao Trung Quốc “phản pháo” tuyên bố trước đó một ngày của tân Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Enrique A. Manalo, vừa nhậm chức hôm 1-7 cùng tân Tổng thống Bongbong Marcos.
Nhà ngoại giao 70 tuổi Manalo từng giữ chức quyền ngoại trưởng, đại sứ Philippines tại Đức, rồi Liên Hiệp Quốc, nên hiển nhiên “rành sáu câu” các quy tắc cũng như “đòn thế” ngoại giao.
Hôm 12-7 tuần rồi, kỷ niệm 6 năm ngày phán quyết PCA về Biển Đông, ông Manalo đã “ra mắt” cộng đồng quốc tế bằng một tuyên bố chính thức dài 486 chữ.
So với tuyên bố năm ngoái kỷ niệm 5 năm phán quyết dài đến 691 chữ của người tiền nhiệm là ông Teodoro L.Locsin Jr, tuyên bố năm nay không chỉ ngắn hơn, mà còn “bọc nhung” hơn.
Mở đầu, ông Manalo viện dẫn “ngày 12-7-2016 như là ngày khẳng định với cộng đồng các quốc gia rằng pháp quyền chiếm ưu thế, và sự ổn định, hòa bình và tiến bộ chỉ có thể đạt được khi được thiết lập trên trật tự pháp lý dựa trên các quy tắc trên đại dương, cũng như ở mọi nơi khác”, mà tránh không đề cập trực tiếp đến vụ kiện hay quan hệ đối kháng Philippines – Trung Quốc trên biển.
Tuyên bố 9 lần đề cập đến “biển Hoa Nam” (tức Biển Đông), song không một lần nhắc đến Trung Quốc, cho thấy chủ ý đấu dịu. Cách hành văn “phi chủ từ” và không nêu danh này cho thấy một thái độ “dĩ hòa vi quý” có vẻ đang ngày càng phổ biến trong khu vực.
Qua đó có thể thấy sơ lược cách tiếp cận của chính quyền mới ở Manila. Có lẽ để xướng họa cho tương ứng, ông Uông ngày hôm sau cũng không nêu đích danh ai cả.
Vụ nói qua, nói lại “cách sơn đả ngưu” này giữa hai bộ ngoại giao Bắc Kinh và Manila cho thấy chính quyền Bongbong Marcos có lẽ sẽ không thay đổi nhiều về chính sách đối ngoại với láng giềng phương bắc.
Thật vậy, giới phân tích từ lâu đã nhận diện tân Tổng thống Marcos là khá “thân thiết” với Bắc Kinh. Những nhận xét chắc nịch như của Aaron Jed Rabena trên trang Fulcrum (Singapore) 12-7 không phải là hiếm:
“Việc Ferdinand “Bongbong” Marcos Jr. được bầu làm tổng thống mới của Philippines đã làm dấy lên suy đoán rằng chính sách về Trung Quốc của chính quyền ông sẽ na ná người tiền nhiệm Rodrigo Duterte. Ngoài việc hai ông là đồng minh chính trị, Bongbong trong chiến dịch tranh cử còn nhiều lần ca ngợi Trung Quốc và thỉnh thoảng chế giễu Hoa Kỳ”.
Tất nhiên, mọi sự trên đời đều có mặt trái mặt phải. Nhà phân tích Rabena lưu ý: “Chớ vội kết luận chính quyền mới sẽ nghiêng hẳn về Bắc Kinh”, bởi lẽ tân Tổng thống Marcos sau khi nhậm chức đã có những tuyên bố về phán quyết PCA 2016 và khẳng định “sẽ nói chuyện với Trung Quốc một cách quả quyết”.
Âu cũng là dễ hiểu, bởi lẽ ông Bongbong không chỉ lãnh đạo cử tri của mình, mà còn phải tranh luận ở nghị trường với các nghị sĩ đối lập, các bậc trưởng thượng trong chính giới, như cựu ngoại trưởng Albert del Rosario hoặc Thẩm phán Tòa Tối cao Antonio Carpio, những người vốn có tinh thần quốc gia dân tộc rất mạnh.
Xã hội Philippines đa dạng, có người thân Trung Quốc, còn nhớ kỹ những đau khổ Mỹ gây ra cho đất nước trong thời thuộc địa; thì cũng có không ít người thân Mỹ, còn nhớ đồng minh Hoa Kỳ từng sống chết với Philippines – như có thể thấy qua 17.000 nấm mồ và tấm đá vôi khắc tên 36.000 binh sĩ Mỹ tử trận trong Thế chiến II còn chưa tìm thấy hài cốt ở nghĩa trang quân đội Mỹ, ngoại ô Manila.
Ký ức của thời kỳ đó còn bao gồm 99 phi công Mỹ thuộc đội tình nguyện Hoa Kỳ Phi hổ (Flying Tigers), mà từ cuối năm 1941 đã cùng 100 máy bay Curtiss P-40 sang Côn Minh (Trung Quốc) tham chiến chống phát xít Nhật thời Tưởng Giới Thạch.
Nay thì lần duy nhất ông Uông nêu đích danh một nước trong tuyên bố của mình ngày 13-7 là: “Là một quốc gia bên ngoài khu vực, Mỹ đã phớt lờ lịch sử và sự thật của vấn đề biển Hoa Nam, đồng thời vi phạm và bóp méo luật pháp quốc tế. Mỹ đã phá vỡ cam kết công khai là không nghiêng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền, đồng thời tìm cách tạo ra cái hố ngăn cách các nước, phá hoại hòa bình và ổn định trong khu vực. Điều này là hết sức vô trách nhiệm. Chúng tôi kêu gọi Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền, quyền và lợi ích của Trung Quốc ở biển Hoa Nam, ngừng gây rối và ngừng sử dụng vấn đề biển Hoa Nam để gây bất hòa giữa các nước trong khu vực”.
Nhưng hơn 40.000 binh sĩ Mỹ tử trận để giành lại Philippines trong Thế chiến II và đội Phi hổ là bằng chứng khó bác bỏ về một nước Mỹ đã, đang và sẽ còn hiện diện ở Biển Đông nói riêng, và châu Á – Thái Bình Dương nói chung, với đầy đủ thẩm quyền.
Còn trong thời hiện đại, một nghiên cứu của Viện SEAS – Yusof Ishak Singapore cho thấy ở Đông Nam Á, khoảng 69% những người được hỏi muốn “Trung Quốc tôn trọng chủ quyền và không ép buộc các chọn lựa chính sách đối ngoại của nước tôi” (Insideover 17-7).
Tương tự, “trong ASEAN nói chung, 64,6% những người được hỏi nghĩ rằng “Trung Quốc nên giải quyết tất cả tranh chấp lãnh thổ và hàng hải một cách hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế””.
Con số này đã tăng so với năm 2021 (55,2%), và đặc biệt áp đảo ở một số nước, như Campuchia (80,0%), Indonesia (63,2%), Philippines (94,5%) và Việt Nam (88,9%).
“Làm luật” trên biển
6 năm đã trôi qua kể từ phán quyết PCA. Tuy nhiên trên thực tế, tình hình Biển Đông vẫn đang biến chuyển như thể chưa từng có phán quyết này, căng thẳng giữa các bên xa gần vẫn không ngớt.
Thiết nghĩ cần nhắc lại những ý chính của phán quyết PCA, kẻo có người cố tình quên: (1) Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với tài nguyên bên trong cái gọi là “Đường 9 đoạn”. (2) Việc Trung Quốc tự ý thay đổi hiện trạng các thực thể trên biển bằng hoạt động cải tạo và xây dựng không tạo ra các quyền mới cho Trung Quốc.
Hai kết luận này nay là cơ sở cho hoạt động của các nước có nhu cầu bảo vệ tuyến hàng hải và quyền tự do hàng hải của mình, từ Mỹ, Úc, Nhật, Pháp, Ấn Độ…
Ngược lại, Trung Quốc vẫn không thừa nhận phán quyết. Đầu tháng 6 vừa rồi, họ tiếp tục các hoạt động “nắn gân” bằng cách cử máy bay chiến đấu J-16 “ép” một máy bay thám thính P-8 của không quân hoàng gia Úc, mà theo Bộ Quốc phòng Úc thì mấy chục năm qua không quân nước họ vẫn hoạt động tại khu vực này, tất nhiên hoàn toàn đúng luật pháp quốc tế.
Càng nguy hiểm hơn khi chiếc J-16 đã phóng ra những mảnh “bùi nhùi” kim loại mà nếu lọt vào động cơ phản lực chiếc P-8 sẽ gây ra một thảm họa khôn lường.
Vụ đó vẫn chưa ghê gớm bằng vụ một máy bay của hãng hàng không dân dụng Cathay Pacific may mắn thoát khỏi một tên lửa Trung Quốc cuối tháng 5 vừa rồi (Eurasian Times 27-5).
Số là trong đoạn video lan truyền trên mạng xã hội, do một phi công đăng tải, một máy bay đã suýt bị trúng tên lửa, được cho là phóng từ tàu ngầm Trung Quốc ở Biển Đông.
Chiếc máy bay đang bay trên Biển Đông khi Cơ quan Kiểm soát không lưu (ATC) cuống cuồng ra lệnh: “Quẹo trái 90 độ ngay lập tức!”. Giọng nói của những người không rõ danh tính trong video bàn về việc liệu tên lửa có đang hướng về phía họ hay không.
Có thể thấy quả đạn trồi lên khỏi mặt biển và bay lên một độ cao phía trước máy bay. Đoạn phim được chia sẻ trực tuyến bởi người dùng Twitter @jchovernut – phi công của Allegiant Air và cựu chiến binh trong cộng đồng tàu ngầm của hải quân Hoa Kỳ.
Chưa hết, vào tháng 6, chiến hạm Úc HMAS Parramatta, sau khi ghé thăm Đà Nẵng, đang trên đường đi Hàn Quốc, thì bị tàu khu trục tên lửa dẫn đường 052C “Luyang II” và tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân 093-A “Shang II” đeo bám sát nút (ABC News 13-7).
Có những vụ “làm luật” khác không gây căng thẳng ngay song lại “chặn đường, chặn sá” trên biển, tỉ như lệnh cấm đánh cá mà Trung Quốc đơn phương áp đặt với ngư dân các nước khác suốt ba tháng rưỡi (Asia Times 6-6).
Cả Mỹ cũng phản đối việc này, lập luận rằng phán quyết PCA đâu có cho Trung Quốc quyền đó. Như để thể hiện rõ sự phản đối, tuần rồi hai lần tàu chiến Mỹ đã tiến vào Hoàng Sa và Trường Sa để chứng tỏ phán quyết 2016 là có giá trị thực hành.
RIMPAC để làm gì?
Vô hình trung, các hành động “làm luật” của Trung Quốc góp phần giải thích mục đích và yêu cầu của cuộc tập trận hải quân RIMPAC 2022 lớn nhất từ trước tới nay, quy tụ 25.000 quân nhân, 38 tàu mặt nước, hơn 170 máy bay và 9 nhóm lực lượng đánh bộ của 26 quốc gia, mà trong khối ASEAN đã có đến phân nửa tham gia (Brunei, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, và Singapore).
Tờ Hindustan Times (Ấn Độ) 6-6, ghi nhận: “Cuộc tập trận đa phương diễn ra vào thời điểm Trung Quốc dự kiến sẽ hạ thủy tàu sân bay thứ ba trong tháng này… Tháng trước, hải quân Trung Quốc đã tập trận ngoài khơi Okinawa bằng cách phô diễn khoảng 300 lượt máy bay hạ và cất cánh từ tàu sân bay Liêu Ninh”.
Tờ báo viết tiếp: “Cảm nhận về mối đe dọa ở Ấn Độ – Thái Bình Dương tăng cao khi Trung Quốc nay sử dụng cơ bắp kinh tế và quân sự để xây dựng các hiệp ước quốc phòng với các đảo xa Thái Bình Dương như quần đảo Soloman, Kiribati và Vanuatu ở châu Đại Dương… Mục tiêu rõ ràng của Trung Quốc là vượt qua chuỗi đảo thứ nhất bao quanh Biển Đông và tiến vào Thái Bình Dương xa hơn, từ đó tạo ra rào cản an ninh cho Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ, cũng như đe dọa ảnh hưởng trong khu vực của Úc”.
Từ đó, tờ báo giải thích cho RIMPAC bằng vỏn vẹn mấy chữ: “RIMPAC là để phô diễn sức mạnh hàng hải”. Ấn Độ tất nhiên có tham gia.
Có thể lấy ví dụ là một nước ASEAN tầm trung như Malaysia cũng tham gia hết mình với khinh hạm KD Lekir, trong bài tập đánh chìm tàu (Sinkex) bằng tên lửa chống hạm Exocet Block 2 của Pháp, được phóng vào mục tiêu giả lập là chiếc khinh hạm mang tên lửa dẫn đường của Mỹ lớp Oliver Hazard Perry đã bị loại biên.
Dẫn đầu về lực lượng tham gia RIMPAC là Hàn Quốc với ba tàu mặt nước và một tàu ngầm. Kế đến là Úc với ba tàu mặt nước. Canada, Nhật Bản và Mexico cùng gửi mỗi nước hai tàu.
Ấn Độ, Chile, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Peru, Pháp, Philippines và Singapore mỗi nước một chiếc. Riêng Ấn Độ phái khinh hạm tàng hình mang tên lửa dẫn đường 6.000 tấn INS Satpura và một máy bay tuần thám P8, theo tin từ Bộ Quốc phòng nước này.
Làm thế nào mà hải quân chừng đó nước, trải dài trên 13 múi giờ, lại có thể tứ hải giai huynh đệ, nếu không vì một mối đe dọa chung?