Nền kinh tế Việt Nam năm 2023 sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ việc thực hiện chương trình phục hồi kinh tế
Tại Diễn đàn Nhịp đập kinh tế Việt Nam lần thứ 2 được tổ chức tại Hà Nội ngày 22-11 với chủ đề: “Tiếp tục phục hồi kinh tế – Các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng”, bà Ramla Khalidi, đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam tươi sáng nhưng rủi ro đang gia tăng.
Rủi ro đến từ bên ngoài
Tuy nhiên, những rủi ro chủ yếu đến từ bên ngoài. Cuộc xung đột Nga – Ukraine, suy thoái kinh tế ở Trung Quốc, lãi suất quốc tế tăng và đồng USD mạnh lên, nguy cơ suy thoái kinh tế ngày càng tăng ở châu Âu có thể ảnh hưởng đến nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam và làm tăng rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô.
Do vậy, các nhà hoạch định chính sách cần cảnh giác, điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ kịp thời với tình hình thay đổi trên toàn cầu. Ngoài ra, theo UNDP tại Việt Nam, cũng có một số rủi ro đến từ trong nước, đặc biệt thị trường ngân hàng và trái phiếu vốn rất nhạy cảm với những điều kiện thay đổi nhanh chóng trong lĩnh vực bất động sản; tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu sẽ ngày càng đè nặng lên sản xuất nông nghiệp, sức khỏe và sự an khang của các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng, lũ lụt, hạn hán và bão lớn.
Theo ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam và Lào, với mức tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam tính đến tháng 9-2022, IMF đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 tăng lên mức 7% – 7,5%. Tuy nhiên, do cầu bên ngoài chậm lại và điều kiện tài chính thắt chặt hơn, IMF hạ dự báo tăng trưởng trong năm 2023 xuống 5,8%; lạm phát cũng dự kiến sẽ tăng lên trước khi dần trở lại dưới mức 4%.
Trong bối cảnh hiện nay, chính sách tiền tệ cần tập trung vào ổn định giá cả. Nên cân nhắc vị thế chính sách tiền tệ thắt chặt hơn nếu áp lực lạm phát gia tăng. Bảo vệ sự ổn định tài chính vẫn nên là ưu tiên hàng đầu.
“Mặc dù chất lượng tài sản ngân hàng đã được cải thiện kể từ cuối năm 2021, song rủi ro tiêu cực đối với tăng trưởng tăng lên, căng thẳng trên thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp, điều kiện thanh khoản ngân hàng thắt chặt hơn và lãi suất cao đòi hỏi phải giám sát chặt chẽ rủi ro ổn định tài chính. Các chính sách tài khóa cần linh hoạt và nhắm trúng đối tượng hơn nếu áp lực lạm phát tăng lên” – đại diện IMF nêu khuyến nghị.
Tăng chất cho xuất khẩu
Ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng Công ty May 10, cho biết từ cuối năm 2021, các DN dệt may đều dự báo năm 2022 ngành dệt may sẽ tăng trưởng rất tốt và trên thực tế đúng như vậy, đến giữa năm nay nhưng sau đó một số DN dần thiếu đơn hàng. Tình hình sẽ khó khăn hơn trong năm 2023 vì hiện tại có những đơn hàng đã chốt nhưng khách hàng đã phải hoãn vì tồn kho lớn. Chính vì vậy, để giảm thiểu áp lực cho các DN dệt may, đặc biệt là các DN xuất khẩu, các chính sách về tỉ giá và lãi suất phải có tiên liệu, dự báo được. Bởi, một đơn hàng từ lúc nhập nguyên phụ liệu, thiết kế mẫu mã, xuất khẩu thường kéo dài khoảng 6 tháng.
Ông Jonathan Pincus, chuyên gia kinh tế quốc tế cấp cao của UNDP, nhấn mạnh tăng trưởng xuất khẩu vẫn là yếu tố quan trọng nhất tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong dài hạn. Tăng xuất khẩu có nghĩa là sản xuất hàng hóa “cạnh tranh” nhưng cũng có nghĩa là sản xuất hàng hóa và dịch vụ “xu hướng” đang có tỉ trọng hàng hóa trong tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới ngày càng tăng.
Hàng hóa “xu hướng” thường là hàng hóa được sản xuất tinh vi, cũng có thể là những sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng cao, đang có nhu cầu cao ở các nước tiên tiến. Hàm ý chính sách là chính phủ có thể sử dụng đầu tư công, giáo dục và thông tin để hỗ trợ các DN sản xuất hàng hóa và dịch vụ “xu hướng” cho xuất khẩu.
Với cái nhìn lạc quan hơn, TS Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Kinh tế ngành và DN thuộc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho rằng sự phục hồi của nền kinh tế năm 2023 sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ việc thực hiện chương trình phục hồi kinh tế 2022 – 2023. Và dự báo Việt Nam vẫn sẽ duy trì mục tiêu ổn định lãi suất và tỉ giá, giữ mặt bằng lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng. Về chính sách tài khóa, hợp phần đầu tư của chương trình hỗ trợ (lên khoảng 1,6% GDP) dự kiến sẽ được triển khai chủ yếu từ năm 2023 trở đi.
Tuy nhiên, theo TS Trần Toàn Thắng, với nền tảng tăng trưởng khá cao trong năm 2022, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 sẽ chậm lại, từng bước trở về trạng thái trước COVID-19 do sức bật cầu trong nước có thể không mạnh mẽ như năm 2022; giá cả nguyên vật liệu tăng cao bắt đầu chuyển hóa rõ nét hơn vào chi phí sản xuất; xuất nhập khẩu có thể tăng chậm hơn so với năm 2022 do tình trạng khó khăn kéo dài của các thị trường xuất khẩu chính; thu hút vốn đầu tư nước ngoài dự báo vẫn ở mức thấp do các rủi ro kinh tế toàn cầu gia tăng.
Hai kịch bản tăng trưởng
Theo TS Trần Toàn Thắng, kinh tế Việt Nam năm 2023 có thể diễn ra theo 2 kịch bản. Kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế có thể chỉ ở mức 6% – 6,2% nếu các yếu tố rủi ro lấn át xu hướng phục hồi đã thiết lập trong năm 2022. Kịch bản 2 khả quan hơn, tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức 6,5 – 6,7% trong điều kiện quá trình phục hồi diễn ra thuận lợi hơn, các tác động từ bối cảnh quốc tế không quá lớn.
T.P