Wednesday, December 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNghiên cứu quốc tếTƯƠNG LAI CỦA HOÀ BÌNH, ỔN ĐỊNH TẠI BIỂN ĐÔNG

TƯƠNG LAI CỦA HOÀ BÌNH, ỔN ĐỊNH TẠI BIỂN ĐÔNG

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của ông Joseph Nguyen, một người rất quan tâm đến những diễn biến tại biển Đông để bạn đọc thấy một cách nhìn của một chuyên gia luật pháp quốc tế về tình hình biển Đông và đánh giá của ông về tương lai của hoà bình, ổn định tại khu vực biển này.

 

Hỏi: Thưa ông Joseph Nguyen, ông đánh giá như thế nào về tình hình biển Đông hiện nay ?

Trả lời : Tôi cho rằng tình hình biển Đông là hết sức nghiêm trọng. Chỉ từ đầu năm đến nay, Trung Quốc đã huy động nhiều loại tàu để xâm phạm vùng biển thuộc các quyền chủ quyền của Việt Nam và Philipin, từ tàu đánh cá có tàu ngư chính yểm trợ đằng sau cho đến các loại tàu hải giám và cả tàu quân sự. Các sự kiện gần đây trên biển Đông là những hành động leo thang trong một xâu chuỗi các động thái xâm phạm của Trung Quốc đối với Việt Nam và Philipin. Từ đầu năm đến nay, Trung Quốc đã chín lần cho tàu chiến và tàu hải giám vào hoạt động trong vùng biển thuộc các quyền chủ quyền của Philipin. Trong tháng 5 vừa qua, Bộ Ngoại giao Philipin dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng nước này cho biết các tàu Trung Quốc đã tiến hành xây dựng và thả phao gần một bãi cạn tại nơi chỉ cách đảo chính Palawan 125 hải lý, tức là nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Philipin. Cũng trong khoảng thời gian này đã diễn ra sự kiện gây chấn động dư luận khu vực và thế giới khi 3 tàu hải giám của Trung Quốc bất ngờ tấn công tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 của Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam đang làm việc tại lô 148 trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý.

Nếu nhìn nhận các vụ việc xâm phạm nói trên của Trung Quốc một cách riêng rẽ thì chỉ đây chỉ là các hành động vi phạm nghiêm trọng các quyền chủ quyền của Việt Nam và Philipin, vi phạm nghiêm trọng luật biển quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển 1982 của Liên hợp quốc. Nhưng nếu ta đặt các hành động gây hấn của Trung Quốc trong một xâu chuỗi các sự kiện trong những thập kỷ vừa qua và gắn nó với những tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc – theo đó khẳng định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và Philipin nằm trong đường lưỡi bò là vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc; coi những hoạt động của Việt Nam và Philipin trong vùng biển của các nước này là các hoạt động vi phạm chủ quyền của Trung Quốc; và vì vậy, những gì mà tàu hải giám Trung Quốc đã làm là các hoạt động giám sát và thực thi luật pháp bình thường – thì có thể khẳng định là các hành động trên của Trung Quốc thực chất là những bước đầu tiên của một cuộc xâm lăng trên biển nhằm độc chiếm biển Đông.

Hỏi: Thưa ông, ý đồ và mục tiêu của Trung Quốc qua các hành động xâm lăng này là gì ?

Trả lời: Theo tôi, ý đồ của Trung Quốc qua các hành động xâm lăng trên là “cụ thể hoá” tham vọng độc chiếm biển Đông, thực hiện chủ nghĩa bành trướng trên thực địa với ba mục tiêu rõ ràng, cụ thể:

Một là, lấn chiếm gần như toàn bộ diện tích biển Đông, trùm lên một phần lớn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước liền kề biển Đông, trong đó có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, nằm trong phạm vi “đường lưỡi bò”;

Hai là, chiếm đoạt toàn bộ tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên cá trong khu vực biển nói trên; và

Ba là, chiếm toàn bộ các đảo trong các quần đảo nằm trong “đường lưỡi bò”, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Đạt được ba mục tiêu này, Trung Quốc có thể khống chế toàn bộ biển Đông, kiểm soát toàn bộ các tuyến đường biển quan trọng tại vùng biển này. Tóm lại, khi đó biển Đông sẽ trở thành cái ao nhà của họ.

Hỏi: Thưa ông, nguyên nhân sâu xa của mọi tình hình phức tạp biển Đông, của những hành động hiếu chiến của Trung Quốc là gì ?

Trả lời: Nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành động hiếu chiến của Trung Quốc, gây ra sóng gió ở biển Đông, biến biển Đông thành một khu vực biển nóng nhất trên thế giới hiện nay là tư tưởng bành trướng, là tham vọng bành trướng bá quyền của giới hiếu chiến ở Bắc Kinh.

Tôi cho rằng chủ nghĩa bành trướng bá quyền của Trung Quốc hiện nay chính là thách thức lớn nhất, đe doạ nghiêm trọng nhất đối với hoà bình, ổn định tại biển Đông.

Hỏi: Ông có nhận định gì về tương lai của hoà bình, ổn định tại biển Đông ?

Trả lời: Tư tưởng bành trướng và tham vọng bành trướng là nguyên nhân chủ yếu của những bất ổn tại khu vực biển Đông. Vì vậy, tương lai của hoà bình, ổn định tại biển Đông phụ thuộc vào thái độ của các nước đối với chủ nghĩa bành trướng và việc các nước trong và ngoài khu vực có thể ngăn chặn được bước tiến của chủ nghĩa bành trướng ở khu vực biển này hay không.

Thái độ của cộng đồng quốc tế đối với chủ nghĩa bành trướng đã được thể hiện rất rõ tại các diễn đàn khu vực và quốc tế: chủ nghĩa bành trướng là không thể chấp nhận được vì nó thách thức tất cả các nước trong và ngoài khu vực; đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định của cả thế giới.

Trong bối cảnh dư luận quốc tế như vậy và với tương quan lực lượng hiện nay, tôi cho rằng các nước trong và ngoài khu vực hoàn toàn có thể ngăn chặn được chủ nghĩa bành trướng ở biển Đông.

Hỏi: Theo ông, vậy các nước trong khu vực biển Đông và các nước khác có lợi ích liên quan ở khu vực biển này cần làm gì để có thể ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng ở biển Đông ?

Trả lời: Để có thể bảo vệ vùng biển, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, các nước nhỏ là các bên tranh chấp khác tại biển Đông như Philipin, Malaysia, Việt Nam, Indonesia và Brunei cần phải liên kết lại một thành một khối để ngăn chặn những bước tiến mới của chủ nghĩa bành trướng ở biển Đông. Mỗi nước đơn độc sẽ khó đương đầu với áp lực ngày càng gia tăng của chủ nghĩa bành trướng. Không gian sinh tồn của các nước này sẽ bị đe doạ nghiêm trọng, thậm chí sẽ chiếm đoạt mất. Nếu liên kết lại, họ sẽ tạo thành một sức mạnh đáng kể để có thể đối phó với Trung Quốc và họ sẽ giữ được chủ quyền, các quyền chủ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển. Bên cạnh đó, các nước này cũng cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước khác trong khu vực và các nước lớn, trong đó có Mỹ, trên thế giới thông qua các quan hệ hợp tác song phương và đa phương và thông qua các diễn đàn khu vực như ASEAN, ARF và các diễn đàn quốc tế khác như Liên hợp quốc.

Hòa bình và ổn định ở biển Đông là điều kiện quan trọng cho các nước thành viên ASEAN phát triển kinh tế. Để giữ gìn hoà bình, ổn định trong khu vực biển Đông, các nước ASEAN cần hình thành một tiếng nói chung – không phải để chống Trung Quốc – mà là để chống chủ nghĩa bành trướng, chống sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực trong khu vực để giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo. ASEAN cũng cần năng động hơn nữa trong việc tham gia tìm ra một giải pháp tích cực cho vấn đề biển Đông. Các nước ASEAN cần tăng cường những nỗ lực xây dựng lòng tin và hợp tác; phát huy hơn nữa các công cụ và cơ chế khu vực hiện có như Hiệp ước thân thiện và hợp tác, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên năm 2002 (DOC), ARF…; thúc đẩy thực hiện các cam kết trong Kế hoạch hành động ASEAN-Trung Quốc (giai đoạn 2011-2015) thông qua tại Cấp cao ASEAN-Trung Quốc tháng 10 năm 2010 về việc tôn trọng, thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC; và đẩy nhanh quá trình soạn thảo bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (COC). Càng nhanh có được bộ quy tắc ứng xử này thì ASEAN càng sớm có thể kiểm soát tình hình có hiệu quả hơn ở biển Đông.

Các nước lớn, trong đó có Mỹ, là những nước có lợi ích thiết thân tại khu vực biển Đông cũng cần có trách nhiệm ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng bá quyền, đóng góp tích cực hơn nữa cho việc giữ gìn và củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực này. Sự bàng quan của các nước này trước tình hình biển Đông sẽ kích hoạt tham vọng bá quyền, đến một lúc nào đó tình hình sẽ không kiểm soát nổi và sẽ phải trả giá đắt. Nếu xung đột xảy ra, các tuyến hàng hải qua biển Đông sẽ ngừng trệ. Các nước sử dụng các tuyến hàng hải này sẽ thiệt hại nhiều tỷ USD vì phải chuyển hướng đi qua những con đường biển khác. Đối với Mỹ, nếu chủ nghĩa bành trướng thắng thế, vai trò của Mỹ trong khu vực và vai trò thống trị của Mỹ trên thế giới rõ ràng sẽ bị thách thức nghiêm trọng. Trong thời gian qua, Mỹ và các cường quốc hàng hải khác đã khẳng định họ là các bên liên quan hợp pháp ở biển Đông và là một phần của quá trình này. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã khẳng định rằng Mỹ có một lợi ích quốc gia trong tự do hàng hải, trong việc sử dụng mở đối với vùng biển hàng hải công cộng ở châu Á và trong việc tôn trọng luật pháp quốc tế ở biển Đông. Trước tình hình căng thẳng gần đây ở biển Đông, người Mỹ đã nhiều lần khẳng định sẽ giữ vững cam kết duy trì sự hiện diện lâu dài ở biển Đông, bày tỏ quan ngại về các xung đột chủ quyền ở khu vực; phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực; tuyên bố ủng hộ một giải pháp ôn hoà cho các tranh chấp trong khu vực và sẵn sàng tham gia vào quá trình tìm kiếm giải pháp. Đó là tín hiệu tốt lành cho hòa bình và ổn định của khu vực biển Đông.

Cộng đồng quốc tế cũng cần lên tiếng chống chủ nghĩa bành trướng. Tư tưởng bành trướng bá quyền và tham vọng bành trướng bá quyền là một sự đe doạ nghiêm trọng đến khuôn khổ pháp lý quốc tế và cơ chế an ninh tập thể được cộng đồng quốc tế tạo dựng lên sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong đó vũ lực bị loại ra khỏi vòng pháp luật. Khuôn khổ pháp lý quốc tế và cơ chế an ninh tập thể này chính là một trong những trụ cột cơ bản nhất của trật tự thế giới hiện nay, là cơ sở căn bản nhất để duy trì an ninh, hoà bình, ổn định trên thế giới. Sự thắng thế và lan tràn của tư tưởng bành trướng bá quyền và chủ nghĩa bành trướng bá quyền với việc sử dụng vũ lực bất chấp luật pháp quốc tế sẽ đưa thế giới trở lại thời kỳ Trung Cổ trong đó sức mạnh của bạo lực được sử dụng như một công cụ để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế và đó sẽ là một thảm hoạ của toàn thể cộng đồng quốc tế.

Nạn nhân của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc cũng chính là nhân dân Trung Quốc và đất nước Trung Quốc. Nếu giới hiếu chiến Trung Quốc sử dụng vũ lực để gây hấn với các nước láng giềng, xung đột bạo lực chắc chắn sẽ xảy ra. Con em nhân dân Trung Quốc sẽ phải đổ máu trong cuộc chiến phi nghĩa. Đất nước Trung Quốc sẽ phải trả cái giá rất đắt. Trung Quốc mất đi chính nghĩa, bị cả thế giới lên án và bị cô lập trên trường quốc tế. Trung Quốc sẽ phải dành một nguồn lực đáng kể để chạy đua vũ trang và cho cuộc chiến tất yếu sẽ thất bại, và như vậy, sẽ tiêu hao nguồn lực cho phát triển. Người phải gánh chịu mọi tổn thất do cuộc bành trướng phi nghĩa mang lại, xét cho cùng, là chính nhân dân Trung Quốc. Vì vậy, cần giải thích rõ cho nhân dân Trung Quốc biết về điều này. Đồng thời, cũng phải làm cho nhân dân Trung Quốc hiểu rõ về sự phi lý, phi nghĩa và trái với luật pháp quốc tế của những yêu sách chủ quyền mà Bắc Kinh đưa ra và về thực chất những gì đang diễn ra ở biển Đông để họ không ủng hộ những hành động bành trướng của giới hiếu chiến ở Bắc Kinh.

Hỏi: Theo ông giải pháp cơ bản và lâu dài cho tranh chấp ở biển Đông là gì ?

Trả lời: Tranh chấp biển Đông rất phức tạp vì liên quan đến nhiều vấn đề và mỗi vấn đề lại liên quan đến các nước khác nhau. Vì vậy, không thể có một giải pháp chung cho tranh chấp biển Đông. Do đó, cần chia tranh chấp biển Đông thành nhiều loại và tìm kiếm giải pháp thích hợp cho từng tranh chấp một, cụ thể là:

1. Tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước hết cần được giải quyết trực tiếp giữa các bên liên quan. Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa cần được giải quyết trực tiếp giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa cần được giải quyết giữa các nước có liên quan như Việt Nam, Malaysia, Philipin và Trung Quốc. Khi giải quyết vấn đề vùng biển liên quan đến quần đảo này thì phải có cả Brunei.

Các tranh chấp trên phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế về chủ quyền lãnh thổ.

2. Các tranh chấp nảy sinh liên quan đến những vùng biển được xác lập theo Công ước luật biển 1982 của Liên hợp quốc thì phải giải quyết trên cơ sở của luật biển quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển 1982, giữa các nước liên quan.

3. Các tranh chấp và khác biệt nảy sinh liên quan đến các quyền và lợi ích của các nước theo Công ước luật biển 1982 tại khu vực biển Đông thì phải được giải quyết trên cơ sở của Công ước này giữa các nước liên quan.

4. Vấn đề duy trì hoà bình, ổn định ở biển Đông cũng như các vấn đề liên quan đến lợi ích chung của các nước như bảo vệ môi trường biển, tự do và an toàn hàng hải, nghiên cứu khoa học biển cần được thảo luận và giải quyết giữa các nước liên quan tại các diễn đàn ASEAN, các diễn đàn khu vực và các diễn đàn về biển khác.

Tôi muốn nhấn mạnh là giải pháp hay các giải pháp lâu dài và bền vững cho các tranh chấp và khác biệt ở biển Đông chỉ có thể đạt được trên cơ sở luật pháp quốc tế, sự tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của nhau và bằng các biện pháp hoà bình.

Trong các loại tranh chấp và vấn đề khác biệt trên, tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hết sức phức tạp, rất khó có thể giải quyết bằng con đường thương lượng. Vì vậy, trong trường hợp đàm phán bế tắc và muốn có giải pháp cuối cùng và lâu dài cho cuộc tranh chấp này thì có lẽ cuối cùng các nước liên quan sẽ phải đưa tranh chấp ra trước Toà án Công lý Quốc tế hoặc một cơ chế tài phán thứ ba thích hợp để giải quyết.

Hỏi: Trong khi chúng ta trao đổi ở đây về một giải pháp lâu dài ở biển Đông thì tình hình vẫn tiếp tục căng thẳng. Theo ông thì các nước cần phải làm gì ?

Trong khi tìm kiếm một giải pháp lâu dài cho các tranh chấp về chủ quyền ở biển Đông, các nước trong và ngoài khu vực, đặc biệt là các nước là các bên tranh chấp, cần tìm ra một giải pháp tạm thời cho tình hình hiện nay. Nếu các căng thẳng không được giải quyết, có thể có những cuộc đụng độ mới trên biển. Điều đó không có lợi cho bất cứ bên nào, và đặc biệt là không có lợi cho hoà bình và ổn định trong khu vực.

Trước mắt, các nước là các bên tranh chấp liên quan cần kiềm chế, không nên có những hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề, nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002 để duy trì hoà bình và hợp tác trong khu vực. Đồng thời, các nước ASEAN cần nỗ lực hơn nữa trong việc xây dựng một quy tắc ứng xử ở biển Đông có tính ràng buộc hơn để ngăn chặn những tranh chấp xảy ra ở Biển Đông có thể leo thang thành xung đột vũ trang.

Bản thân người Trung Quốc cũng cần hiểu rằng hiện nay mọi thứ đã thay đổi, bối cảnh khu vực và thế giới cũng đã thay đổi, việc dùng sức mạnh để gây áp lực hay đe doạ các nước khác không phải là một cách tiếp cận tốt. Trái lại, áp lực chỉ gây ra phản ứng ngược lại của các nước láng giềng và cộng đồng quốc tế.

Các nước là các bên tranh chấp liên quan cũng cần tìm kiếm khả năng hợp tác khai thác cùng phát triển ở biển Đông để giảm bớt tình hình căng thẳng hiện nay và tăng cường tinh thần hợp tác trong khu vực. Tuy nhiên, chỉ có thể hợp tác cùng phát triển với một số điều kiện nhất định. Một là, các bên tranh chấp phải hình thành các yêu sách chủ quyền trên biển của mình phù hợp với luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế, trong đó có Công ước luật biển 1982. Yêu sách “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc nêu ra hoàn toàn vô lý, trái với những chuẩn mực hình thành các yêu sách chủ quyền của luật pháp quốc tế, vì vậy, Trung Quốc cần từ bỏ yêu sách này. Do các đảo, đá bãi ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không đủ điều kiện cho con người sinh tồn và không có đời sống kinh tế riêng nên các bên tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cần từ bỏ tham vọng lấy hai quần đảo này làm cơ sở để xác lập vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý… Hai là, hợp tác cùng phát triển cần được tiến hành trên cơ sở các nguyên tắc phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế như: tuân thủ luật biển quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển 1982; tôn trọng các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển; khai thác cùng phát triển tại các khu vực có tranh chấp và các hoạt động hợp tác khai thác chung không ảnh hưởng đến chủ quyền và các quyền chủ quyền của các bên tranh chấp liên quan khi phân định các khu vực nói trên sau này; và trên cơ sở nguyên tắc công bằng, hợp lý và cùng có lợi.

BDN

RELATED ARTICLES

Tin mới