BienDong.Net: Phủ biên tạp lục là tài liệu cổ xưa mô tả kỹ càng nhất về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, được nhà bác học Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776.
Phủ biên tạp lục đã ghi chép lại một cách khách quan và chân thực về công cuộc khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Phủ biên tạp lục được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm Hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép về tình hình xã hội Đàng Trong từ thế kỷ thứ 18 trở về trước. Phủ biên tạp lục, sau khi được giám định, phiên dịch và hiệu đính rất công phu bởi Viện Sử học, năm 1977 được Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản thành sách và được đưa vào làm tập I của bộ “Lê Quý Đôn toàn tập”.
Phủ biên tạp lục gồm 6 quyển. Bộ sách hiện có 8 dị bản: 5 dị bản lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm tại Hà Nội, ba dị bản đang được lưu giữ tại Pháp. Hai đoạn chép về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm trong Quyển II (Hình thế núi sông, thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam) trang 116 và trang 119 – 120. Phủ biên tạp lục đã ghi lại khá chi tiết về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này cho thấy rõ các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực sự chinh phục hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong Phủ biên tạp lục Lê Quý Đôn mô tả Hoàng Sa nằm ở ngoài biển về phía đông bắc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tức đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Về địa hình thì “có nhiều cù lao, các núi nằm rải rác hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy”. Về sinh vật thì có yến sào, chim, ốc vân, ốc xà cừ, ốc hương, đồi mồi, hải ba, hải sâm… Trên đảo còn có hàng hóa của các con tàu bị đắm – “hóa vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, đồ sứ, đồ chiên”
Tại quyển 2, tờ 27a – 29a của Phủ biên tạp lục viết: “Xã An Bình huyện Bình Sơn phủ Quảng Ngãi ở gần biển, phía Đông Bắc ngoài biển có nhiều đảo, các núi nằm rải rác có đến hơn 130 ngọn, giữa các núi là biển, các núi cách nhau đi chừng một ngày đường hoặc vài canh giờ. Trên núi có suối nước ngọt, trên đảo có bãi cát vàng, dài ước hơn ba mươi dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong tận đáy. Bên vách đảo có nhiều tổ chim yến, số chim có đến nghìn vạn con, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh… Các phiên thuyền gặp gió lớn phần nhiều bị hỏng ở đây. Trước đây họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, luân phiên nhau hàng năm cứ vào tháng ba nhận mệnh đi làm sai dịch, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra biển, ba ngày ba đêm mới đến đảo này… ”
Qua những ghi chép trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, có thể thấy từ thế kỷ 16 – 17, nhà nước phong kiến Việt Nam đã nghiên cứu và hiểu biết rất rõ vị trí địa lý, địa hình và những điều kiện tự nhiên của 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đặc biệt, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã ghi chép rất chi tiết về tổ chức, cơ chế hoạt động và các hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải trong việc thực hiện Lệnh của Triều đình đi khai thác quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Để khai thác các nguồn lợi kinh tế và bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các chúa Nguyễn và sau này là các vua Tây Sơn, vua Nguyễn đã cho lập các đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và Bắc Hải là khai thác, tìm nhặt hàng hóa của các con tàu bị đắm dạt vào các đảo (gươm, súng, vàng bạc, đồ đồng, thiếc, chì…) đánh bắt hải sản (ốc, hải sâm, vỏ đồi mồi, vỏ hải ba…); đo vẽ, dựng bia chủ quyền thay mặt Nhà nước thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Trong Quyển II của tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã mô tả khá cụ thể về hoạt động chính của đội Hoàng Sa: “… cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiến, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về”. Lịch hoạt động trong năm từ tháng 2 đến tháng 8, ở lại trên đảo 6 tháng. Sau mỗi chuyến đi đội Hoàng Sa phải vào thành Phú Xuân để nộp những sản vật thu được cho Nhà nước theo quy định.
Đội Hoàng Sa mỗi năm có đến nửa năm, từ tháng 9 năm trước đến tháng 2 năm sau không chính thức hoạt động ngoài biển khơi cho nên họ còn được điều động đi làm nhiều các công việc khác. Sách Phủ Biên tạp lục, Quyển IV, khi chép về thuế vàng, Lê Quý Đôn còn cho hay là đội Hoàng Sa đã từng phải đi đào vàng ở xã Nam Phố Hạ, huyện Phú Vang: “Lệ cũ cho xã dân lĩnh tiền nhà nước để ăn mà đi lấy vàng, được miễn trừ tiền thuế. Mùa xuân năm Bính Thân (1776) kiêm đốc suất Đoan Quận công sai thuộc tướng là Cơ Trung hầu đào lấy, gọi đội Hoàng Sa đến và thuê phu 65 người đào lấy đãi nấu… ”.
Trong tác phẩm Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn còn cung cấp những con số cụ thể mà đội Hoàng Sa trong cả 6 tháng trời ròng rã ngoài biển khơi “lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không”: “Tôi đã xem sổ của Cai đội cũ là Thuyên Đức hầu biên rằng: Năm Nhâm Ngọ (1762) lượm được 80 hốt bạc; năm Giáp Thân (1764) được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu (1765) được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu (1769) đến năm Quý Tỵ (1773), 5 năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ và 2 khẩu súng đồng mà thôi”. Những con số đã xác nhận một thực tế là hiệu quả kinh tế của đội Hoàng Sa rất thấp và có thể khẳng định Chúa Nguyễn lập ra đội Hoàng Sa không phải chủ yếu vì mục đích kinh tế mà là để thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa thời kỳ mới thành lập chỉ chủ yếu là vùng quần đảo Hoàng Sa. Thế nhưng do sự phát triển quá nhanh về phía nam của cả lãnh thổ lẫn vùng biển nên đội Hoàng Sa dù có cố gắng đến mấy thì cũng không thể nào bao quát hết được toàn bộ các vùng biển đảo giữa Biển Đông và nam Biển Đông, kể cả hệ thống các đảo là bộ phận hữu cơ của vùng đất Hà Tiên cho nên Chúa Nguyễn đã quyết định lập thêm đội Bắc Hải.
Lê Quý Đôn viết: “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai Cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”. Như vậy, địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải tương đương với quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo phía Nam Biển Đông và vịnh Thái Lan, tuy hoạt động độc lập nhưng về nguyên tắc đội Bắc Hải vẫn do đội Hoàng Sa kiêm quản. Thu hoạch thất thường: “Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không”. Phần hải vật thường ổn định, còn hóa vật thì nhiều ít tùy năm. “Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được”.
Theo ghi chép của Lê Quý Đôn thì đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự do nhà nước lập ra, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý biển đảo. Thành viên đội Hoàng Sa là những dân địa phương được tổ chức theo hình thức quân sự. Đứng đầu mỗi đội là một cai đội (thường là vị quan lớn như cai đội Thuyên Đức Hầu – một người được phong tước “hầu”), những thành viên trong đội được gọi là “quân nhân”. Đội Hoàng Sa được thành lập trên cơ sở tuyển chọn 70 dân đinh An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Còn Đội Bắc Hải: “không định bao nhiêu suất”, được tuyển chọn từ những người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương.
Từ xa xưa chính quyền Trung Quốc đã biết đến hoạt động của các đội Hoàng Sa khai thác, thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa và không hề có phản ứng nào về những hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục đã ghi chép lại sự việc trong một lần khi đội Hoàng Sa gặp nạn trôi dạt vào bờ biển Hải Nam Trung Quốc, Chính quyền Trung Quốc đã giúp đỡ những người lính Hoàng Sa hồi hương. Trong tác phẩm của mình, Lê Quý Đôn viết: “Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Vàng (tức đội Hoàng Sa) huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi, nước An Nam ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thức Lượng Hầu làm thư trả lời”.
Nhiều nội dung hoạt động của đội Hoàng Sa được Lê Quý Đôn phản ánh trong tác phẩm Phủ biên tạp lục là những câu chuyện mà ông sưu tập được trong 6 tháng làm Hiệp trấn tham tán quân cơ ở Thuận Hoá năm 1776.
Các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đều thống nhất cho rằng tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là nguồn tài liệu xác thực và có giá trị quan trọng bậc nhất để nghiên cứu về các đội Hoàng Sa và Bắc Hải, một tổ chức được Nhà nước phong kiến Việt Nam lập ra để thực thi chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.