Sự gia tăng hiện diện quân sự đang giúp Trung Quốc tiến tới gần tham vọng độc chiếm Biển Đông!
Sự kiện tàu sân bay Mỹ John C. Stennis cùng 4 chiến hạm khác đi vào Biển Đông hôm 1/3/2016, trong một chiến dịch tuần tra được mô tả là bình thường mang một thông điệp rất rõ ràng: Mỹ là cường quốc quân sự hàng đầu trong khu vực và quyết tâm duy trì vị thế đó. Thông điệp đó lại được phát đi trong bối cảnh vị thế đó của Mỹ đang bị cạnh tranh và đe dọa nghiêm trọng bởi sự gia tăng hiện diện của Trung Quốc. Hải quân Mỹ cũng phải thừa nhận rằng, có vô số tàu hải quân Trung Quốc hoạt động gần đó, ngày một đông đảo hơn trong những năm gần đây.
Phân tích sự kiện này, nhật báo Mỹ The New York Times mới đây có bài ghi nhận mang tựa đề “Việc tăng cường hiện diện giúp Bắc Kinh tiến gần hơn đến việc thực hiện quyền khống chế Biển Đông” (South China Sea buildup brings Beijing closer to realizing control).
Tờ báo Mỹ đã trích lời một quan chức Trung Quốc khẳng định rằng tàu Trung Quốc đã có mặt trong vùng để “giám sát, nhận dạng, theo dõi và đánh đuổi” tàu thuyền và máy bay ngoại quốc, tùy theo khoảng cách giữa những chiếc tàu này với “đảo của chúng ta”.
Theo New York Times, kể từ ngày lên cầm quyền cách nay 3 năm, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã biến các đảo, đá mà Bắc Kinh chiếm đóng (trái phép) tại vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành công cụ để in đậm “dấu chân quân sự” của Trung Quốc trong khu vực, từng bước xây dựng và trang bị vũ khí cho các tiền đồn xa đất liền, bất chấp phản đối của các nước láng giềng và của Washington.
Giấc mơ về vùng đệm an ninh trên biển
Quy mô của các nỗ lực trị giá hàng tỷ đô la nói trên đã làm căng thẳng leo thang trong khu vực và củng cố tuyên bố chủ quyền gây tranh cãi của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông – nơi có những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới.
Đà tăng cường sự hiện diện của Trung Quốc cũng khuấy động nguyên trạng quân sự ở Tây Thái Bình Dương kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, đưa Trung Quốc tiến lại gần hơn mục tiêu thiết lập một vùng đệm an ninh nằm ở xa bờ biển Trung Quốc, một giấc mơ của các chiến lược gia Trung Quốc kể từ thời Chiến tranh Triều Tiên.
“Trung Quốc muốn có một cái ao nhà… muốn có một vùng biển của riêng họ, nơi họ có thể cho tàu quân sự và cảnh sát của họ hoạt động mà không cần phải lo lắng về sự hiện diện của Hải quân Mỹ hay Philippines, Việt Nam hay Ấn Độ” – Marc Lanteigne, chuyên gia nghiên cứu cấp cao về chính sách đối ngoại của Trung Quốc tại Viện Quan hệ Quốc tế Na Uy so sánh ý đồ khống chế Biển Đông của Trung Quốc với sự thống trị của Mỹ hiện trên vùng biển Caribbean.
Việc tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông đã được Bắc Kinh tiến hành theo từng bước, nhưng rõ ràng là rất nhanh chóng, vì tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước láng giềng đã tồn tại từ hàng chục năm nay.
Công việc nạo vét cát để xây dựng đảo nhân tạo trên các rạn san hô ở quần đảo Trường Sa bắt đầu vào đầu năm 2014, nhưng tăng tốc vào năm ngoái, và các bãi ngầm giờ đã có cảng nước sâu và đường băng dài thích hợp cho tàu chiến và máy bay chiến đấu.
Sau đó, tên lửa đất – đối – không đã xuất hiện vào tháng 2 vừa qua tại quần đảo Hoàng Sa, cách Trường Sa hơn 300 dặm về phía bắc. Hiện nay, ảnh vệ tinh cho thấy các công trình mang dáng dấp của các đài radar cực mạnh, có khả năng mở rộng tầm hủy diệt của tên lửa Trung Quốc đặt trên đất liền đối với tàu sân bay Mỹ ở ngoài khơi xa.
Hải quân Mỹ gặp khó
Các tiền đồn mới này của Trung Quốc hiện chưa phải là mối đe dọa lớn cho quân đội Mỹ, vì rất dễ bị triệt hạ trong một cuộc xung đột. Tuy nhiên, các quan chức Mỹ ngày càng lo ngại rằng đà tăng cường sự hiện diện quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông, nếu không được kiểm soát kịp thời, sẽ cung cấp cho Bắc Kinh quyền kiểm soát trên thực tế một vùng biển có kích thước của Mexico và một ưu thế quân sự trên các láng giềng đang tranh chấp chủ quyền trên vùng biển với Trung Quốc.
Điều này, theo các chuyên gia phân tích, có thể thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực và gia tăng nguy cơ xung đột.
Trong khi các quan chức ở Washington nói rằng còn lâu Trung Quốc mới đạt được khả năng đuổi lực lượng Mỹ ra khỏi vùng Biển Đông, giới phân tích cho rằng việc Trung Quốc tăng cường sự hiện diện của họ trong vùng sẽ làm cho Hải quân Mỹ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc nhanh chóng bảo vệ các đồng minh có quân đội yếu hơn, như Philippines.
Việc triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa chống hạm và radar cực mạnh ở Biển Đông còn khiến cho Hải Quân Trung Quốc táo tợn hơn, trong khi các chỉ huy Mỹ thì dè dặt hơn.
Điều trần trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ hồi tháng trước, Đô đốc Harry Harris, chỉ huy Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ, cảnh báo rằng hành động của Trung Quốc đang làm “thay đổi cảnh quan chiến lược trong vùng Biển Đông”.
Trong câu trả lời bằng văn bản gửi đến Ủy ban, quan chức tình báo hàng đầu của chính quyền Obama, ông James R. Clapper, dự đoán rằng Trung Quốc sẽ “có năng lực đáng kể để nhanh chóng triển khai sức mạnh quân sự hùng hậu đến khu vực” vào đầu năm tới.
Mặc dù chưa hoàn tất các công trình xây dựng, nhưng theo ông Clapper, Trung Quốc đã có thể đã triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa đất – đối – không, tên lửa hành trình bảo vệ bờ biển cũng như tàu chiến lớn và các tàu bảo vệ bờ biển khá lớn tại các đảo nhân tạo mới trong quần đảo Trường Sa.
Ông cũng khẳng định rằng Trung Quốc đã lắp đặt radar quân sự trên Đá Châu Viên, một trong 7 bãi đá mà họ đã đảo hóa phi pháp tại Trường Sa, cách tỉnh Hải Nam – hòn đảo cực Nam Trung Quốc 600 dặm. Về lý thuyết, Trung Quốc có thể mở rộng tầm bắn của loại tên lửa được mệnh danh là sát thủ diệt tàu sân bay DF-21D, để tấn công các mục tiêu xa xôi và gây khó khăn cho Hải quân Mỹ trong việc tìm cách đối phó.
Việt Nam, Philippines: Hai nạn nhân chính
Sự gia tăng hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông còn đặt ra mối đe dọa an ninh trực tiếp cho các nước láng giềng cũng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines.
Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng viện Mỹ, cảnh báo rằng Trung Quốc có dấu hiệu sẵn sàng đánh đuổi lính Philippines đóng trên một bãi cạn khác ở Biển Đông. Ông thúc giục chính quyền Obama nói rõ cách đối phó.
Theo các nhà phân tích, việc Bắc Kinh tăng cường hiện diện tại Biển Đông cho phép tàu Trung Quốc hoạt động trong thời gian dài tại vùng quần đảo Trường Sa mà không cần quay về đất liền.
Chuyên gia Gregory Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) ở Washington nhận định: “Bây giờ tàu Trung Quốc có thể yên tâm ở lại vùng quần đảo Trường Sa bất cứ khi nào họ muốn”.
Theo chuyên gia Poling, việc đặt hệ thống radar mới trên bãi Đá Châu Viên có thể cung cấp cho Trung Quốc khả năng nhìn quá đường chân trời và giám sát các mục tiêu xa xôi như eo biển Malacca cách đấy hàng trăm dặm về phía tây nam.
Nhìn chung, các quan chức Mỹ và giới phân tích đều nghĩ rằng, tiếp theo cảng nước sâu, đường băng, trạm radar và các hệ thống phòng không, Trung Quốc sẽ xây dựng các bể chứa nhiên liệu lớn trên các đảo, đá mà họ đang kiểm soat sở Biển Đông, để cho phép máy bay chiến đấu ở lại trong khu vực này lâu hơn. Sau đó, Bắc Kinh sẽ ngang nhiên áp đặt một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông, tương tự như những gì Trung Quốc đã làm ở biển Hoa Đông vào cuối năm 2013.