Thursday, April 25, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiVũ khí sát thương là gì?

Vũ khí sát thương là gì?

Nhiều nước cần sử dụng vũ khí sát thương nhưng không được tự do sử dụng theo ý muốn mà phải được cấp phép theo quy định ITAR của Mỹ.

Máy bay săn ngầm Orion P-3C của Mỹ

Việt Nam cũng là một trong những nước phụ thuộc vào ITAR bởi lệnh cấm vận của Mỹ từ 42 năm qua. Do đó, qua chuyến thăm lần này của Thổng thống Mỹ Obama, lệnh cấm vận mua bán và sử dụng vũ khí sát thương đã được dỡ bỏ hoàn toàn, mở ra triển vọng mới cho Việt Nam trong nhiệm vụ phòng thủ đất nước.

Những loại vũ khí như súng hơi cay, lựu đạn choáng, đạn cao su… được xếp vào dạng vũ khí phi sát thương, còn tất cả các loại vũ khí khác như súng đạn, xe tăng, máy bay chiến đấu, tên lửa, tàu chiến… được xếp vào dạng vũ khí sát thương.

Trong vũ khí sát thương, người ta lại chia thành 2 loại là vũ khí tấn công và vũ khí phòng thủ.

Sự ngặt nghèo của ITAS

Theo quy định của ITAR, một công dân Mỹ muốn xuất khẩu các mặt hàng có trong danh mục USML cho một người nước ngoài phải được sự cho phép từ Bộ Ngoại giao Mỹ, trước khi hoạt động diễn ra. Cá nhân, tổ chức nào vi phạm sẽ bị phạt rất nặng.

Từ năm 1999, chính quyền Mỹ đã tăng cường hoạt động chống các tổ chức, cá nhân vi phạm ITAR. Nổi tiếng nhất là lần Mỹ phạt 100 triệu USD nhằm vào công ty ITT, do bán lại, khi chưa được cho phép, công nghệ kính nhìn đêm cho Trung Quốc vào năm 2007.

Các nhà thầu Mỹ khác từng bị phạt do vi phạm ITAR gần đây còn có Lockheed Martin, Motorola, Boeing, L-3 Communications và Northrop Grumman. Trong phần lớn các trường hợp, những công ty vi phạm sẽ bị thanh tra, kiểm tra rất kỹ. Các trường hợp nghiêm trọng còn bị cấm xuất khẩu trong một thời gian.

Đối với Việt Nam, từ năm 1984, Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách Quản lý buôn bán vũ khí quốc tế (ITAR), gồm các quốc gia bị Mỹ từ chối cấp phép bán trang thiết bị vũ khí và dịch vụ quốc phòng. Đến năm 1994 Mỹ vẫn không đưa Việt Nam ra khỏi ITAR, ngay cả khi đã chấm dứt cấm vận thương mại.

Tới tháng 4-2007, Bộ Ngoại giao Mỹ mới sửa ITAR để cho phép “cấp giấy phép trên từng trường hợp cụ thể, cho hoạt động xuất khẩu hoặc nhập khẩu các loại hàng hóa, trang thiết bị vũ khí và dịch vụ quốc phòng phi sát thương tới hoặc xuất phát từ Việt Nam”. Và năm 2014, Bộ Ngoại giao Mỹ lại sửa ITAR thêm lần nữa, cho phép xem xét trên từng trường hợp cụ thể, việc xuất khẩu một số loại vũ khí sát thương sang Việt Nam.

Với việc Mỹ từng bước nới lỏng lệnh cấm vận vũ khí vào Việt Nam, giới phân tích đánh giá ưu tiên hàng đầu của Việt Nam sẽ là mua linh kiện cho những chiếc trực thăng Huey và xe bọc thép M113 mà chúng ta thu được nhiều sau chiến tranh chống Mỹ.

Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2015 của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đề nghị phía Hoa Kỳ sớm dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương vốn tồn tại lâu nay nhưng không phải ai cũng biết.

Vũ khí sát thương – một công cụ trong chính sách ngoại giao Mỹ

ITAR và Luật kiểm soát xuất khẩu vũ khí (AECA) là sản phẩm hình thành từ thời Chiến tranh Lạnh. Chúng ra đời trong năm 1976 với mục tiêu kiểm soát xuất khẩu vũ khí Mỹ sang các nước thuộc khối Đông Âu, nhằm bảo vệ an ninh quốc gia Mỹ và góp phần thực hiện các mục tiêu chính sách ngoại giao của nước này.

ITAR và AECA kiểm soát toàn bộ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu các mặt hàng và dịch vụ quốc phòng được nêu trong Danh sách trang thiết bị vũ khí, khí tài, đạn dược quân sự Hoa Kỳ (USML).

Danh sách USML thay đổi thường xuyên theo thời gian và có một số mặt hàng sẽ được thêm hoặc rút khỏi danh sách sau những lần sửa đổi này.

Trong một thông báo mới đây, Chính phủ Mỹ đã tiết lộ về các biện pháp hỗ trợ năng lực hàng hải cho 4 nước Đông Nam Á trong thời gian tới.

Đối với Việt Nam, Mỹ sẽ giúp phát triển năng lực trên biển. Mỹ cũng sẽ mở rộng huấn luyện và tập luyện song phương với Việt Nam, tập trung vào các vấn đề nhân đạo và cứu trợ thiên tai. Mỹ tăng cường hỗ trợ cho các đồng minh và đối tác trong khu vực để giúp họ phản ứng với những đe dọa trong vùng biển của mình và đảm bảo an ninh hàng hải trên toàn khu vực.

Mỹ viện trợ tổng số 119 triệu USD trong năm tài khóa 2015 và 140 triệu USD trong năm tài khóa 2016 để phát triển năng lực hàng hải ở Đông Nam Á. Những khoản tiền này được dành cho 4 nước ở Đông Nam Á gồm Philippines, Việt Nam, Indonesia và Malaysia. Chính phủ Mỹ cho biết, Mỹ sẽ tham vấn các đồng minh và đối tác để xác định nhu cầu và yêu cầu của họ hiệu quả hơn, đồng thời tìm ra cơ hội mới cho hợp tác trên biển.

Một chương mới được mở ra

Theo ông Jon Grevatt, chuyên gia của tờ IHS Jane’s, Mỹ sẽ không lập tức bán các loại vũ khí tấn công tối tân cho Việt Nam ngay sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận. Với quyết định này của Washington, từ nay các hãng sản xuất vũ khí của Mỹ sẽ có thể lần đầu tiên bán các hệ thống phòng thủ trên biển cho Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975. Ông Jon Grevatt nhận định: “Bước đầu sẽ là các hệ thống phòng thủ biển chứ không phải các loại vũ khí tấn công. Sẽ không có những lô hàng kiểu chiến đấu cơ F-16, điều đó rất khó xảy ra”.

Các quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ cũng khẳng định rằng, những loại vũ khí nào bán cho Việt Nam sẽ được phía Mỹ xem xét theo từng trường hợp một và chỉ nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ chủ quyền, an ninh biển.

Tuy nhiên, ngoài các loại vũ khí tấn công, Mỹ còn có rất nhiều loại vũ khí sát thương phục vụ mục đích phòng thủ “đáng sợ” khác. Theo ông Grevatt, nhiều khả năng Việt Nam sẽ nhận được máy bay trinh sát săn ngầm P-3 Orion (không mang vũ khí) và các hệ thống radar Raytheon đầu tiên từ Mỹ trong thời gian tới.

Ông Grevatt cho rằng, Việt Nam sẽ mua các loại vũ khí này vì chúng là “những vũ khí phòng thủ tốt nhất trên thế giới”, dù đây chỉ là những phiên bản cũ đã được phát triển từ cách đây khá lâu, và nhiều khả năng Mỹ cũng sẽ không chia sẻ công nghệ với Việt Nam giống như các đối tác ở châu Âu.

Thời gian tới, Mỹ sẽ tiếp tục bán các loại vũ khí hiện đại hơn cho Việt Nam, trong đó có các hệ thống trên không và cả tàu chiến. Điều này phù hợp với mục đích xây dựng “quan hệ đối tác chiến lược” của Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà Việt Nam là một trọng tâm.

P-3 Orion là loại máy bay 4 động cơ cánh quạt được hãng Lockheed Martin chế tạo cho hải quân Mỹ như một loại máy bay trinh sát biển và săn ngầm hiệu quả. “Sát thủ săn ngầm” P-3 Orion được trang bị một thiết bị dò tìm biến dị từ trường (MAD) gắn ở sau đuôi chuyên phát hiện các động thái của tàu ngầm dưới mặt biển, cùng hệ thống cảm biến âm thanh hiện đại có thể bắt được âm thanh tàu ngầm phát ra từ độ sâu hơn 300 mét dưới mực nước biển.

Ngoài ra, P-3 Orion còn được tích hợp hệ thống cảm biến ảnh đa chiều hiện đại của hãng Raytheon cùng rất nhiều loại cảm biến tầm xa khác, đến mức cần phải có tới 11 người trong khoang mới vận hành hết các hệ thống này.

Trong suốt 50 năm hoạt động trong quân đội của nhiều nước trên thế giới, P-3 Orion luôn được trang bị những hệ thống trinh sát mới nhất và hiện đại nhất. Trong thực tế, P-3 Orion là một trong những loại máy bay vô cùng hiếm hoi vẫn được lực lượng không quân các nước ưa chuộng.

RELATED ARTICLES

Tin mới