Hoạt động của Trung Quốc không chỉ bị coi là “tội phạm quốc tế”, thậm chí là “một hành vi xâm lược”, mà còn có nguy cơ dẫn đến những hệ lụy nhãn tiền.
Ảnh chụp đá Vành Khăn từ vệ tinh mới nhất hôm 22/7 do CSIS công bố, tố cáo Trung Quốc leo thang quân sự hóa Biển Đông. Nguồn: Business Insirder.
Trước khi phân tích nội dung này, xin được nhắc lại rằng Trung Quốc đã “vi phạm liên hoàn”: Đánh chiếm lãnh thổ của Việt Nam bằng vũ lực năm 1988, 1995, rồi tiếp tục bồi lấp xây dựng trái phép trên vùng lãnh thổ đó.
Trong phạm vi bài viết này tôi xin phân tích tiếp những điều khoản UNCLOS 1982 mà Trung Quốc đã vi phạm khi xây đảo nhân tạo bất hợp pháp ở Trường Sa, ngoài việc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Trung Quốc đã vi phạm các điều khoản nào của UNCLOS 1982?
Chỉ tính riêng về các hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo do Trung Quốc tiến hành tại 7 bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa đã cho thấy họ không tuân thủ nghĩa vụ thông báo theo đúng thủ tục về sự hiện diện của các đảo nhân tạo này, cũng như phạm vi an toàn được ấn định xung quanh chúng đã được quy định tại Điều 60 của UNCLOS 1982.
Cụ thể là Trung Quốc đã vi phạm Khoản 3 (nghĩa vụ thông báo), Khoản 5 (phạm vi an toàn bán kính 500 mét xung quanh các đảo nhân tạo), Khoản 7 (không cho phép xây dựng đảo nhân tạo có nguy cơ gây mất an ninh và an toàn hàng hải quốc tế), Khoản 8 (không cho phép các đảo nhân tạo được hưởng quy chế của các đảo tự nhiên)…
Trung Quốc còn phớt lờ nghĩa vụ cần phải hợp tác với các quốc gia ở ven bờ biển kín hoặc nửa kín theo quy định của Điều 123 của UNCLOS 1982 như: phối hợp quản lý, bảo tồn, thăm dò, khai thác các tài nguyên sinh vật của biển; phối hợp trong việc sử dụng quyền và nghĩa vụ có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Đặc biệt, Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các Điều 192, 193, 196 của UNCLOS 1982 quy định về nghĩa vụ chung cho tất cả các quốc gia đối với việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, trong khi họ khai thác tài nguyên trong vùng biển và thềm lục địa.
Hơn thế nữa, trong quá trình bồi lấp, biến các bãi cạn thành các đảo nhân tạo khổng lồ, Trung Quốc đã làm thay đổi cấu trúc môi trường sinh thái biển, tàn phá môi trường sinh sống của các loài hải sản.
Theo đánh giá của các chuyên gia, đến cuối tháng 5 năm 2015, Trung Quốc đã san lấp hơn 800 ha (gần 2000 mẫu Anh) các rạn san hô, thảm cỏ biển và hệ sinh thái nông khác. Trung Quốc đã phá hủy chừng 200 ha bao phủ 7 rạn san hô.
Chỉ riêng tại Chữ Thập, Trung Quốc đã nạo vét trên một diện tích rộng đến hơn 60 ha. Nếu cộng tất cả hệ sinh thái bị phá hủy có thể vượt quá 1000 ha.
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, Trung Quốc đã nạo vét hàng trăm triệu tấn cát và san hô từ đáy biển và đổ lên 8 triệu mét vuông diện tích mặt nước thuộc các rạn san hô vốn là môi trường tối quan trọng cho hệ sinh thái ở nơi đây.
Ước tính giá trị thiệt hại do các rạn san hô bị phá hủy lên đến khoảng 280 triệu đôla Mỹ/năm.
Cũng theo báo cáo mới của Bộ Quốc Phòng Mỹ, kể từ khi Trung Quốc tiến hành cải tạo đất từ tháng 12 năm 2013 đến nay, nước này đã lấp thêm được hơn 1.170 ha đất.
Tính đến tháng 6 năm 2015, diện tích Trung Quốc đã nạo vét bồi đắp thành đảo nhân tạo lớn gấp 17 lần so với tổng diện tích số đất mà các bên còn lại ở Biển Đông đã san lấp trong vòng suốt 40 năm qua; chiếm khoảng 95% diện tích các đảo và bãi cạn tại Trường Sa.
Ngoài ra, hoạt động bồi lấp, xây dựng của Trung Quốc đã vi phạm Điều 208 của UNCLOS1982 về ô nhiễm môi trường biển:
“Các quốc gia phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết khác để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển…” và “các luật, quy định và biện pháp này không được kém hiệu lực hơn các quy tắc và quy phạm quốc tế hay các tập quán, thủ tục đã được kiến nghị mang tính chất quốc tế…”
Học giả quốc tế lên án mạnh mẽ hành vi hủy diệt môi trường của Trung Quốc ở Trường Sa
Nhiều học giả quốc tế đã phân tích, đánh giá hết sức sâu sắc và nghiêm túc về tính chất và mức độ của những hành vi “nạo vét, bồi lấp và xây dựng” của Trung Quốc.
Giáo sư Carl Thayer nhận xét : “Chúng ta không thể không đề cập đến một khía cạnh rất quan trọng khác. Bởi lẽ, luật biển quốc tế đã đề xuất rằng việc xây dựng các đảo nhân tạo không được gây ra tác động tiêu cực đối với quy chế về môi trường biển…”
Ông Aghai Diba, B. trong bài viết có tiêu đề: “Legal Regime of the Artificial Islands in the Persian Gulf” đã viết:
“Vấn đề khả năng ô nhiễm biển liên quan đến việc xây dựng cũng đồng thời dẫn đến những vấn đề pháp lý cụ thể, khi mà những sự gây ô nhiễm đó có thể được coi như là một tội phạm quốc tế, thậm chí như là một hành vi xâm lược.”
Hoạt động của Trung Quốc không chỉ bị coi là “tội phạm quốc tế”, thậm chí là “một hành vi xâm lược”, mà còn có nguy cơ dẫn đến những hệ lụy nhãn tiền, theo đánh giá của nhiều chuyên gia. Các nguy cơ này bao gồm:
– Rủi ro của những cuộc xung đột có thể bất ngờ leo thang, trước mắt là những cuộc chạy đua vũ trang công khai hoặc ngấm ngầm của hầu hết các quốc gia trong và ngoài khu vực.
– Những yêu sách đầy tham vọng đối với nguồn tài nguyên giàu tiềm năng trong Biển Đông dẫn đến tình trạng khai thác bừa bãi, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên hoặc ngược lại, làm ảnh hưởng đề đời sống kinh tế của khu vực và quốc tế.
– Những rủi ro đối với tự do hàng hải trong khu vực và làm trầm trọng thêm các tranh chấp phức tạp trong Biển Đông.
Giáo sư Carl Thayer đã nhận xét rằng:
“Những hành động của Trung Quốc trong trường hợp này đưa đến một số vấn đề phức tạp. Trước hết, việc xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc trực tiếp vi phạm UNCLOS 1982.
Hơn nữa, những công trình này đã tạo ra các vấn đề rắc rối cho tàu thuyền và các phương tiện bay. Ngoài ra, những công trình do Trung Quốc tiến hành gây ảnh hưởng đến hòa bình thế giới và ổn định của khu vực, cho dù Trung Quốc vẫn lặp đi lặp lại tuyên bố, những đảo nhân tạo này sẽ phục vụ cho mục đích quốc phòng.”