Trong vấn đề phát triển kinh tế ở khu vực vành đai Biển Nam Trung Hoa, có khả năng chúng ta sẽ chứng kiến những sự khác biệt trong quan niệm về việc xác định các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam, trong mọi tình huống, luôn kiên định với khái niệm thềm lục địa, nhất là ở khu vực phía Nam Trường Sa. Đó là quan điểm thường trực và luôn cứng rắn của các cơ quan Việt Nam.
Bãi đá Scarborough, nơi tranh chấp chủ quyền giữa Philippines và Trung Quốc
Hậu quả của việc diễn giải khác nhau giữa các quốc gia về Luật Biển
Quan điểm này được Chính phủ Việt Nam đưa ra khi Trung Quốc cho phép Công ty Crestone của Mỹ thăm dò – khai thác dầu ở phần cực Tây Nam của Trường Sa, trên dải Vanguard (Wan Anbei theo tiếng Trung Quốc, Tư Chính theo tiếng Việt). Điều nghịch lý là Hà Nội đã không phản đối việc Bắc Kinh lấn chiếm Trường Sa mà phản đối việc lấn phần thềm lục địa Việt Nam. Hà Nội đã đưa ra lập luận theo đó dải Vangard được ngăn cách với phần còn lại của Trường Sa bởi một hố sâu (ở phía Đông) đánh dấu sự sụt xuống của thềm lục địa Việt Nam.
Nếu ở thời kỳ đó, cuộc tranh luận đã lên tới cực điểm khi Trung Quốc biển dương lực lượng hải quân của mình để đe dọa Việt Nam, tuy nhiên, họ vẫn không muốn kích động tình hình bởi lẽ hợp đồng với Crestone cho tới nay vẫn không có bước tiến cụ thể nào.
Về phía Philippines, Trung Quốc cũng tranh cãi với Manila về khái niệm quần đảo Trung Sa (Zhongsa Qundao), chủ quyền đối với bãi đá ngầm Scaborough. Điều này hoàn toàn không giống với trường hợp của Việt Nam. Đó là lý do tại sao theo thông tin chính thức từ Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2005, Công ty Petro Vietnam chấp nhận tham gia chương trình thăm dò địa chấn được xây dựng từ ngày 01 tháng 9 năm 2004 giữa Công ty Trung Quốc CNOOC và Công ty Phi-líp-pin PNOC nhằm triển khai ba chiến dịch đo đạc chung. Tuy vậy, ba chiến dịch này trên thực tế được triển khai trong một khu vực chớm một phần lên phía Bắc Kalayaan, tức là trên một phần lãnh thổ mà Hà Nội cũng đang có yêu sách. Thực tế đằng sau đó, Việt Nam nhận thấy rằng nếu họ để cho Trung Quốc và Phi-líp-pin thực thi một thỏa thuận song phương mà hông tham gia vào đó, họ có nguy cơ ngầm tự loại mình ra khỏi cuộc đấu tranh đòi một phần lãnh thổ mà họ cho là của mình, cũng đồng thời tự loại mình khỏi việc tiếp cận với những dữ liệu có thể thu được từ những cuộc thăm dò đó.
Giả thiết cực đoan về tự do hàng hải
Trong số những giả thiết cực đoan theo đó cộng đồng quốc tế một ngày nào đó chấp nhận khái niệm quần đảo Trung Sa của Trung Quốc (Zhongsa Qundao), tức là bao gồm cả bãi Truro và Scaborough, điều này sẽ cho phép Bắc xác định những đường cơ sở thẳng chung quanh như họ đã làm với Hoàng Sa. Như thế, sẽ xuất hiện những hạn chế nghiêm trọng đối với quyền tự do hàng hải đối với tất cả các tàu thuyền không mang quốc tịch Trung Quốc trong khu vực, đặc biệt là các tàu quân sự. Thực vậy, qua quan sát bản đồ như cách mà Trung Quốc xác định các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình, Trung Quốc dường như muốn giành quyền kiểm soát đối với toàn bộ tuyến giao thông hàng hải giữa phía Nam và phía Bắc trên Biển Nam Trung Hoa. Điều này có lẽ sẽ áp dụng cả với các tàu thương mại, dù hiện nay các tàu không gặp bất cứ sự hạn chế nào trong việc đi qua vùng lãnh hải Trung Quốc.
Nhưng đối với các tàu chiến thì không như vậy. Thực vậy, đi ngược lại với các quy định của luật biển về vấn đề này, Trung Quốc không công nhận quyền qua lại vô hại đối với những tàu chiến trong vùng lãnh hải của mình. Do đó, để có thể đi qua vùng lãnh hải của Trung Quốc, các tàu chiến đều phải được phép của Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là một tàu chiến nước ngoài quá cảnh qua Biển Nam Trung Hoa theo trục Bắc-Nam có thể sẽ buộc phải đi theo hành lang nhỏ hẹp giữa Hoàng Sa và dải Macclesfiekd ở phía Tây và ở phía Đông sẽ bị hạn chế, thậm chí bị cấm đi qua vùng nước của quần đảo Trung Sa. Tuy đây là một giả thiết cực đoan nhưng nếu xét khả năng hiện tại của Trung Quốc khi họ thường được toại nguyện với những đòi hỏi của mình, giả thuyết này cũng đáng được nghiên cứu, hay ít ra là đáng được suy ngẫm. Một vấn đề tương tự nữa cũng có thể được đặt ra liên quan đến những hoạt động nghiên cứu khoa học hay thủy văn bởi những điều khoản của Công ước Luật Biển được các quốc gia diễn giải rất khác nhau.
Kết luận
Qua tất cả các phân tích trên đây, có vẻ như “đường lưỡi bò” có khả năng sẽ còn là chủ đề gây tranh cãi trong thời gian dài nữa. Ngay cả khi nó đang bắt đầu lung lay trong suy nghĩ của một số người Trung Quốc vốn mong muốn giới thiệu về đất nước mình như một thành viên đáng tin cậy của Công ước Luật Biển, một thành viên có những yêu sách ở Biển Nam Trung Hoa nhưng là những yêu sách có thể chấp nhận được, trong khi những yêu sách hiện tại của Trung Quốc có vẻ như thiếu căn cứ. Việc từ bỏ rõ ràng dứt khoát yêu sách về “đường lưỡi bò” của Trung Quốc sẽ cho phép phá bỏ mọi sự mập mờ về thực tế của nó, đem lại sự khách quan hơn trong những cuộc thương lượng giữa các nước trong khu vực và cho phép cùng khai thác nguồn tài nguyên trong một vài khu vực hiếm hoi nơi không có bất kỳ sự tranh chấp nào. Đó sẽ là một viễn cảnh thực tế đáng mừng, nhất là khi một số sự kiện mới đây trong khu vực đang mở ra những hướng như vậy:
– Đó là Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam, ký ngày 25 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực sau đó khoảng bốn năm rưỡi với việc trao đổi văn kiện phê chuẩn ngày 30 tháng 6 năm 2004.
– Đó cũng là Hiệp định ba bên về việc thăm dò địa chấn giữa Trung Quốc, Phi-líp-pin và Việt Nam tại phía bắc quần đảo Trường Sa dù rằng có một số diễn biến có thể làm ảnh hưởng tới hiệp định này.
– Đó còn là Chương trình nghiên cứu khoa học chung giữa Phillipines và Việt Nam (Joint Ocenographic Maritime Scientific Rechearch Programme-JOMSRE) từ năm 1996 cho phép ra nước thực hiện việc quan trắc về sinh thái và môi trường biển ở Biển Nam Trung Hoa theo tuyến Đông-Tây, giữa đảo Palawan của Phillipines và cảng Nha Trang của Việt Nam. Trung Quốc không có ý kiến phản đối đối với chương trình này và hiện đang thương lượng để cùng tham gia.
– Cuối cùng và cũng không kém phần quan trọng, đó là Hiệp định Trung – Nhật ngày 18 tháng 6 năm 2008, trong đó hai nước nhất trí cùng khai thác giếng gas Chuxiao (theo tên gọi Trung Quốc) hay Shirakaba (theo tên gọi Nhật), nằm trên một khu vực mà Trung Quốc và Nhật thỏa thuận cùng mở rộng vùng đặc quyền kinh tế của mình, nơi có sự chồng chéo tham vọng của các bên, và dẫn tới sự chồng chéo về yêu sách. Nhưng trong khi chờ đợi việc đạt được một hiệp định về việc phân định chủ quyền giữa hai bên, một thỏa thuận cùng khai thác như vậy chỉ đem lại lợi ích cho nền kinh tế của hai nước.
Về việc này, có lẽ cần nhớ rằng Hiệp định Trung-Nhật đã dẫn tới một số cuộc biểu tình của những người theo chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc trước Đại sứ quán Nhật ở Bắc Kinh. Điều này dẫn tới việc Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vũ Đại Vĩ (Wu Dawei) phải công khai phát biểu vào ngày 19 tháng 6 để nhắc lại rằng Hiệp định được ký kết trong bất kỳ trường hợp nào sẽ không làm mất quyền chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc trong khu vực này. Đó là một phát biểu đúng lúc cho phép giải mã phát biểu được đưa ra trong một cuộc gặp gỡ với một học viện của Trung Quốc với nội dung sau: “Để đạt được bước tiếp (chúng ta nhất trí ở đây là trong vấn đề Biển Nam Trung Hoa) chúng ta cần phải tính đến ý kiến dư luận”. Ngay lập tức, phát biểu như vậy gây bất ngờ và làm dấy lên sự hoài nghi bởi lẽ dư luận có thể được kiểm soát ở Trung Quốc. Nhưng việc điều chỉnh lại Hiệp định Chuxiao có thể báo hiệu một bước tiến trong suy nghĩ đích thực của Trung Quốc về việc xem xét lại những yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Nam Trung Hoa, thậm chí có thể một ngày nào đó là quyết định từ bỏ vĩnh viễn việc in “đường lưỡi bò” trên các bản đồ.
Cuối cùng, Trung Quốc cũng đã yên tâm phần nào về phía Nhật Bản. Họ cũng yên tâm về phía Đài Loan bởi lẽ tân tổng thống với lập trường dân tộc chủ nghĩa Quốc Dân đảng phản đối việc độc lập của Đài Loan và ủng hộ thương lượng với lục địa. Quan sát những diễn biến như vậy cho thấy hai giả thuyết có thể xảy ra: Giả thuyết thứ nhất, khi Trung Quốc không còn phải lo lắng ở khu vực phía Đông sẽ tiếp tục những nỗ lực của mình ở phía Nam, trong vùng Biển Nam Trung Hoa, để tăng cường sức ép với các nước xung quanh để buộc họ theo ý mình, hoặc giả thuyết thứ hai theo chiều hướng ngược lại, Trung Quốc sẽ thúc đẩy cách tiếp cận hòa bình để tìm ra những giải pháp, ít ra là trước mắt, tạm thời chấp nhận được, cho phép khai thác hợp lý toàn bộ nguồn tài nguyên của vùng biển này.
Qua những áp lực mà Trung Quốc thực hiện đối với Việt Nam từ tháng 4 năm 2007 với vụ BP và từ mùa xuân 2008 với vụ Exxon, dường như chúng ta đang theo một xu hướng gần với giả thuyết thứ nhất hơn. Trên thực tế, việc đề cao quá mức thành công của chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 30 tháng 02 năm 2008 cũng không thể làm thay đổi được đánh giá như vậy, ngay cả khi thông báo song phương ngày 01 tháng 6 nhắc lại rằng “hai bên nhất trí phát triển quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn diện Trung Quốc -Việt Nam theo nguyên tắc “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và trên tinh thần là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt và đối tác tốt”.