TS.Nguyễn Văn Khải cho rằng, dạy lý tưởng, đạo đức rất nhiều, nhưng hiệu quả thấp đấy là vì nhiều người lớn đang ứng xử tồi.
Học ở trường rồi lại phải học thêm khiến cho cả phụ huynh và học sinh đều chịu áp lực.
Thứ nhất: Chương trình chỗ thừa, chỗ thiếu, dạy thêm, học thêm tràn lan
Chương trình – sách giáo khoa ở Việt Nam chỗ thừa chỗ thiếu. Rất nhiều kiến thức cần thiết thì học sinh không được tiếp cận hoặc có thì cũng không đủ, mà môn Ngoại ngữ là thí dụ điển hình.
Ở kỳ thi tốt nghiệp THPT 2016 vừa qua, trong tổng số hơn 400.000 thí sinh dự thi môn Ngoại ngữ thì có tới 300.000 thí sinh chỉ đạt điểm từ 3,8 trở xuống.
Trong khi đó, chúng ta lại luôn rơi vào cảnh quá tải, đó là do cách dạy, cách học. Khắp nơi bắt ép trẻ con phải học thêm. Đến trường chưa đủ thì đến cả nhà cô giáo để học thêm. Và tất nhiên trước khi học thêm thì phụ huynh phải ký vào giấy cam kết tự nguyện. Đó là “chiếc phao” cho nhà trường, cho giáo viên khi cơ quan chức năng, báo chí vào cuộc.
Thứ hai: Càng học lên cao càng nhàn
Ở bậc phổ thông, học sinh học hành rất vất vả. Vừa vào lớp 1 có khi đã bị ép học thêm, vác chiếc ba lô nặng đến lệch cả người. Nhiều gia đình biết điều đó không đúng nhưng họ sợ bị giáo viên thù vặt nên cũng không dám có ý kiến.
Mặc dù định hướng thì nói là mong muốn học sinh phát triển toàn diện, nhưng thời gian dành cho các môn học thuộc lòng quá nhiều; trong khi đó thời gian dành cho phát triển kỹ năng sống, văn nghệ, thể thao… lại vô cùng ít ỏi.
Học sinh rất vất vả để vào được lớp 10, rồi vào đại học. Nhưng khi đã vào đại học thì đào tạo và học hành đều lớt phớt, nên cầm tấm bằng tốt nghiệp mà cứ như chưa được học.
Rất nhiều trường đại học công lập là dạy thiên về lý thuyết, thiếu trầm trọng thực tiễn. Đó là sự khác biệt trong đào tạo của Việt Nam so với các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến.
Họ có định hướng hết sức rõ ràng, từng năm sinh viên phải hoàn thành được những nhiệm vụ gì, phải có đề tài hết sức cụ thể và giảng viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp sinh viên hoàn thành công trình.
Họ không giảng lý thuyết tràn lan như ở ta, mà lý thuyết phải do sinh viên tự đọc, tự nghiên cứu trong quá trình tham gia vào các công trình khoa học, từ đó các em tạo nên những sản phẩm trí tuệ của riêng mình.
Thứ ba: Học giỏi, thi giỏi, nhưng kỹ năng làm việc kém
Lâu nay, chúng ta đã nói nhiều đến vấn đề cử nhân thất nghiệp, thậm chí thạc sĩ cũng thất nghiệp. Con số này ngày càng tăng lên và trở thành gánh nặng cho xã hội.
Vậy phải đặt ra câu hỏi: Tại sao học sinh của Việt Nam học thì giỏi, thậm chí khi ra nước ngoài học tập cũng được đánh giá là chịu khó, có thành tích học tập tốt. Ấy thế nhưng khi tốt nghiệp đi làm thì bộc lộ vô cùng yếu kém về các kỹ năng.
Phải chăng do lối đào tạo “kinh viện” từ thời phong kiến vẫn còn ảnh hưởng quá mạnh tới công tác đào tạo hiện nay?
Cộng thêm với một nền hành chính bao cấp, không chịu đổi mới, có quá nhiều trường đại học hưởng ngân sách nhà nước và tuyển sinh, đào tạo ồ ạt, rồi cấp bằng cũng ồ ạt mà không phải chịu trách nhiệm gì khi sản phẩm đào tạo ra thất nghiệp.
Thi thoảng có một số cử nhân giỏi, hay cử nhân học nước ngoài về nước làm việc thì cũng không phát huy được, và nhiều trường hợp chọn giải pháp làm cho doanh nghiệp tư nhân của nước ngoài.
Tức là nhiều cơ quan nhà nước, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp không đánh giá cao sự sáng tạo của các bạn trẻ. Nhất là ở các cơ quan nhà nước, khi bạn sáng tạo, chủ động trong công việc nhưng trái với ý cấp trên thì cũng là một rào cản vô cùng lớn.
Một thí dụ rất điển hình nữa về sức sáng tạo là số lượng các sáng chế của Việt Nam cũng thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, chứ không dám so sánh ra châu Á hay toàn thế giới.
Vừa rồi, báo chí cũng bàn nhiều về chuyện đào tạo tiến sĩ, và nhiều người ngã ngửa khi mà trong 5 năm qua chỉ có 22 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí uy tín của quốc tế.
Cái đáng lo là người ta dùng những tấm “bằng thật – trình độ giả” chỉ để làm vật trang trí hoặc làm phương tiện “bám trụ” và thăng tiến trong những công việc không liên quan đến nghiên cứu khoa học, giáo dục đại học.
Và khi những con người ấy được giao nhiệm vụ, ngồi vào các chức vụ trong hệ thống cơ quan nhà nước thì theo tư duy logic – họ cũng không coi trọng bằng cấp thật khi tuyển dụng nhân sự, đánh giá năng lực của cán bộ dưới quyền.
Thứ tư: Dạy lý tưởng, đạo đức rất nhiều, nhưng hiệu quả thấp
Dạy kiến thức quan trọng, nhưng dạy con trẻ thành người tử tế còn quan trọng hơn.
Chúng ta biết rằng trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, ở đâu mà chẳng khó khăn, ăn không đủ no – mặc không đủ ấm, ấy thế trên khắp các miền quê là cảnh sống thanh bình. Con người thực sự yêu thương, chia sẻ với những quy tắc bất thành văn nhưng có tính giáo dục cao.
Bây giờ, khi đời sống khấm khá hơn, học sinh có điều kiện học hành tử tế hơn thì lại nảy sinh quá nhiều tệ nạn. Tệ nạn thì ở xã hội nào cũng có, ta cũng thế mà tây cũng vậy.
Nhưng có nhiều người được học hành tử tế, được đề bạt vào các chức vụ quan trọng lại gây ra những chuyện tày đình, làm thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước.
Tiền ấy suy cho cùng cũng là mồ hôi nước mắt của dân cả đấy chứ. Vậy thì chúng ta nói sao với con trẻ đây khi mà người lớn đang ứng xử tồi?
Vì vậy, muốn dạy được con trẻ thành người tử tế thì trước hết người lớn phải tử tế; mà gần nhất với chúng chính là cha mẹ và thầy cô giáo phải làm gương.
Đối với nhà nước, dứt khoát phải xử lý nghiêm minh những cán bộ lợi dụng chức vụ để tạo vỏ bọc cho “lối sống hai mặt”.
Thứ năm: Bộ Giáo dục quản lý hệ thống, quản lý tuyển sinh, nhưng tiền và người thì địa phương quản
Đây là một vấn đề vô cùng nan giải đối với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự thật hiển nhiên nhiều năm qua là Bộ Giáo dục quản lý hệ thống chung, quản lý tuyển sinh, nhưng kinh phí chi cho giáo dục là do Hội đồng nhân dân ở các địa phương quyết định.
Họ chi thế nào đó là vấn đề của riêng từng địa phương và nếu có báo cáo lên Bộ Giáo dục thì cũng chỉ là qua loa, đại khái.
Và, một vấn đề nan giải nữa là quản lý con người cũng do các địa phương tự quyết định. Đã có hàng loạt địa phương từ Hà Nội, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An… xảy ra chuyện vài chục cho tới vài trăm giáo viên ký hợp đồng, rồi đến một ngày bất ngờ chấm dứt hợp đồng, mất việc.
Tức là ông lãnh đạo cũ thì đồng ý ký hợp đồng cho những giáo viên đó; nhưng hết thời hạn và khi có lãnh đạo mới thì lại một loạt hợp đồng kiểu mới.
Không được quản người và cũng không được quản tiền, nhưng lại phải chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Đó chính là khó khăn rất lớn của Bộ Giáo dục.