Những nhận định về Nga: Biển Đông đối với Nga là một phần của những lợi ích không lớn, không đáng để Nga đặt cá cược trong ván bài. Chính vì vậy, Nga không muốn đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc, ngược lại còn ngầm hỗ trợ Bắc Kinh. Liệu nhận định này đúng hay sai?
Tính toán của Nga ở Biển Đông
Chính sách của Nga liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông phức tạp hơn những gì người ta vẫn nhận định về nó. Lập trường chính thức của Moscow là, Nga là nước nằm ngoài khu vực và không có yêu sách nào trong các tranh chấp ở Biển Đông.
Theo Bộ Ngoại giao Nga, nước này chưa bao giờ là một bên tham gia các tranh chấp ở Biển Đông. Moscow xem việc không đứng về bất kỳ bên nào trong các bên yêu sách ở Biển Đông là nguyên tắc.
Tuy nhiên, đằng sau lập trường chính thức có vẻ khách quan này là sự gia tăng hoạt động quân sự của Nga ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, cùng nhiều tỉ USD giao dịch vũ khí và năng lượng với các bên yêu sách khác nhau ở Biển Đông. Những yếu tố đó cho thấy, mặc dù Moscow không có yêu sách trực tiếp ở Biển Đông, người Nga vẫn có mục tiêu chiến lược, lợi ích ở Biển Đông. Hành động của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng diễn biến tranh chấp trên vùng biển này.
Một phần tư ngân sách chương trình hiện đại hóa quân sự khổng lồ của Nga đến năm 2020 được dành riêng cho Hạm đội Thái Bình Dương đóng trụ sở tại Vladivostok để lực lượng này được trang bị tốt hơn, phục vụ các hoạt động trong những vùng biển xa. Hợp tác quân sự Nga – Trung đã đạt đến mức “đối tác tự nhiên, đồng minh tự nhiên” như phát biểu của Tổng thống Vladimir Putin.
Cuộc tập trận chung hải quân Nga – Trung năm 2016 mang tên “Joint Sea 2016”, đã diễn ra trên Biển Đông. Đây là cuộc tập trận chung đầu tiên giữa Trung Quốc và một quốc gia khác ở Biển Đông đang tranh chấp, sau Phán quyết Trọng tài bác bỏ đường lưỡi bò.
Việt Nam trong chiến lược của Nga trên Biển Đông
Tuy nhiên, quan hệ hợp tác Nga – Việt cũng đang cho thấy một xu hướng phát triển tương tự. Quan hệ hợp tác Nga – Việt đã được nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện như quan hệ Nga – Trung. Nga và Việt Nam đang phát triển các dự án khai thác khí đốt chung ở Biển Đông.
Nga cũng đang cố gắng quay trở lại căn cứ Cam Ranh, đồng thời bán cho Việt Nam hệ thống vũ khí tiên tiến nhằm nâng cao khả năng phòng thủ. Do đó, hành vi thực tế này của Moscow hầu như không phù hợp với tính trung lập trong các tuyên bố chính thức của họ về Biển Đông.
Sự phát triển đồng thời trong hợp tác quân sự với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, hai trong số các bên yêu sách có tranh chấp trực tiếp trên Biển Đông, làm cho ý định thực sự của Nga rất khó giải thích.
Việc giải thích nó đòi hỏi một khuôn khổ toàn diện hơn, bao trùm các mối quan tâm của Nga trong chính sách đối ngoại ở nhiều cấp độ khác nhau.
Thỏa hiệp Mỹ – Trung – Nga ở Biển Đông
Các cường quốc chơi trò chơi chính sách đối ngoại đa tầng có thể trùng lặp nhau trong các vấn đề, lĩnh vực cụ thể. Đối với Nga, Biển Đông là nơi mà hai cấp độ chính sách của họ giao thoa nhau: sự cân bằng hệ thống chống bá quyền (đơn cực) và quản lý rủi ro phi hệ thống trong khu vực.
Cấp độ đầu tiên – sự cân bằng hệ thống chống bá quyền (đơn cực) được thúc đẩy bởi sự phân bố quyền lực toàn cầu, cũng như nhận thức về các mối đe dọa lớn. Ở cấp độ này, Nga thách thức thế giới đơn cực do Mỹ dẫn đầu bằng nhiều cách. Bằng chứng là chính sách của Moscow ở Georgia, Ukraine và Syria.
Hệ thống cân bằng do Mỹ dẫn đầu đã thúc đẩy Nga tìm cách bắt tay với Trung Quốc. Trong đó Nga thách thức sự thống trị đơn cực của Mỹ và nhận thức chiến lược “xoay trục sang châu Á” của Mỹ là một mối đe dọa lớn với an ninh của Nga.
Vì vậy, đánh giá của cả Nga lẫn Trung Quốc về các mối đe dọa bên ngoài đã gặp nhau. Cả hai xem chính sách của Mỹ mở rộng NATO về phía Đông hay xoay trục sang châu Á đều là mối đe dọa. Áp lực có nguồn gốc từ hệ thống quốc tế do Mỹ đứng đầu và các mối ưu tiên chung để chống lại nó đã tạo ra điểm mấu chốt thúc đẩy Nga và Trung Quốc hợp tác với nhau.
Từ quan điểm này, Biển Đông đối với Nga là một phần của trò chơi toàn cầu lớn hơn, trong đó Nga không đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc, ngược lại còn ngầm hỗ trợ Bắc Kinh, nếu không thể công khai.
Nó được thúc đẩy bởi các đặc điểm nội địa và khu vực trong một sự kết hợp các chính sách, nhằm đa dạng hóa các liên kết khu vực của Nga, ngăn chặn các bất ổn tiềm tàng có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của Nga ở châu Á – Thái Bình Dương.
Nó cũng dẫn đầu các tính toán của Nga về thương mại, nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ năng lượng, cơ sở hạ tầng và những giao dịch vũ khí.
Bằng cách tăng cường kết nối với Việt Nam, bao gồm xuất khẩu vũ khí, hợp tác kỹ thuật quân sự và triển khai các dự án năng lượng lượng chung, Moscow sẽ tạo ra một cơ cấu quyền lực và cân bằng lợi ích tốt hơn xung quanh Biển Đông.
Đồng thời Nga sẽ đa dạng hóa các danh mục đầu tư vào các đối tác châu Á, trong khi Việt Nam đóng vai trò như cửa ngõ để Nga thâm nhập ASEAN.
Điều này giải thích lý do tại sao Nga không phản đối chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời lại tỏ ra thông cảm với những lo ngại của Việt Nam về Biển Đông.
Việt Nam trong hợp tác với Nga ở Biển Đông
Việt Nam đã tận dụng mối quan hệ hợp tác với Nga vì sự hợp tác này rất có giá trị theo đúng nghĩa, mà còn vì quan hệ gần gũi Trung – Nga cung cấp cho Việt Nam một kênh để cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
Không giống như quan hệ với Hoa Kỳ, hợp tác với Nga cung cấp cho Việt Nam quyền truy cập cần thiết để có được các vũ khí tiên tiến và công nghệ năng lượng, đồng thời tránh được tình huống bị khóa giữa 2 siêu cường Hoa Kỳ – Trung Quốc. Trong khi đó, người Việt rất có kinh nghiệm sử dụng vũ khí và thiết bị quân sự của Nga. Chính sách của Nga cũng gây được tiếng vang với các tính toán chiến lược của Bắc Kinh.
Trong khi không hài lòng về việc Nga bán vũ khí cho Việt Nam, Bắc Kinh nhận thấy sự suy giảm hay chấm dứt hoạt động này sẽ đẩy người Việt về phía Hoa Kỳ. Trong trường hợp này Bắc Kinh cũng cần cân nhắc kỹ.
Do đó bất chấp các tuyên bố của Trung Quốc nhấn mạnh chống quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, Bắc Kinh vẫn chấp nhận sự tham gia lớn hơn của Nga vào khu vực này, cũng như quan hệ hợp tác quân sự Nga – Việt. Còn phía Nga, bằng cách hợp tác với cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, họ nhận ra mục tiêu của mình trong khu vực và trên toàn cầu.
Nó làm tăng vai trò của Nga trong cán cân quyền lực châu Á, làm chậm quan hệ hợp tác Mỹ – Việt và tranh chấp Biển Đông sẽ có nhiều không gian hơn cho đàm phán đa phương. Đối với Nga, duy trì nguyên trạng cho dù không hoàn hảo, vẫn tốt hơn so với việc chiến thắng nghiêng về bất kỳ bên nào.
Theo quan điểm chính thức của Bộ ngoại giao Nga, Matxcơva là một bên ngoài cuộc và sẽ không đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp. Tuy nhiên đằng sau đó, Nga đang tăng cường quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương, ký kết các thoả thuận năng lượng, vũ khí tỉ đô với các nước có tranh chấp.
Hợp tác quân sự của Nga với Trung Quốc phát triển đến mức tổng thống Vladimir Putin đã gọi Bắc Kinh là “đối tác tự nhiên và đồng minh tự nhiên” và hai nước đã tham gia cuộc tập trận chung Joint Sea 2016.
Mặt khác, Matxcơva cũng tăng cường quan hệ với Việt Nam. “Việc cùng lúc tăng cường quân sự với hai bên tranh chấp trực tiếp chính trên Biển Đông cho thấy rất khó diễn giải ý định của Nga và cần một khuôn khổ thể hiện các mức lợi ích chính sách đối ngoại khác nhau của Nga” Các nước lớn thường áp dụng nhiều lớp chính sách ngoại giao đổi với một vấn đề/khu vực cụ thể. Tại Biển Đông, Nga đang sử dụng hai tầng chính sách: cân bằng hệ thống và khoanh vùng khu vực.
Để tái cân bằng hệ thống, Nga đã liên kết với Trung Quốc để đối phó với mối đe doạ của cả hai là sự bành trướng của khối NATO ở đông Âu, đối với Nga, và chính sách xoay trục châu Á, đối với Trung Quốc.
Nói một cách khác, Biển Đông là một phần trong chiến lược lớn hơn của Nga nhằm thể hiện rằng Matxcơva không chống lại các lợi ích của Bắc Kinh và sẵn lòng thể hiện một chút ủng hộ.
Trong khi đó, chính sách khoanh vùng khu vực giúp bảo vệ các lợi ích kinh tế của Nga ở châu Á -Thái Bình Dương, giúp Matxcơva thu lợi nhuận trong các mảng năng lượng, hạ tầng và bán vũ khí. Điều đó lý giải vì sao Nga không phản đối chính sách của Trung Quốc nhưng vẫn tỏ ra đồng cảm với những lo ngại của Việt Nam về vấn đề Biển Đông
Các nước trong khu vực vẫn cần mối quan hệ với Nga để tiếp cận với vũ khí, kỹ thuật và tránh bị vùi dập trong cuộc canh tranh Trung-Mỹ. Đối với Trung Quốc, việc Nga giao du với các nước trong khu vực có vẻ “chống Trung Quốc” nhưng thực tế đã giúp Bắc Kinh giải quyết mối lo ngại các nước siết chặt quan hệ với Mỹ. Đối với Nga, việc duy trì hiện trạng, dù có thế nào, cũng tốt hơn đối mặt với chiến thắng của một bên trước bên còn lại.