Cục diện hiện nay cho thấy cả Mỹ và TQ đều không ai có ý định nhượng bộ. Liệu kịch bản nào sẽ xảy ra ở Biển Đông trong thời gian tới?
Mỹ sẽ tăng cường đối đầu Trung Quốc
Trước sự quyết đoán gia tăng của Trung Quốc (TQ), điều mà Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis nói – đảm bảo tự do không chỉ cho Mỹ mà cho tất cả các quốc gia ở Biển Đông – cho đến nay chỉ thực hiện được một vế. Rõ ràng TQ dù phản đối nhưng chưa trực tiếp ngăn chặn được FONOPS (các hoạt động tự do hàng hải) của Mỹ, trong khi tự do hàng hải của các nước khu vực như Việt Nam, Malaysia, Philippines, v.v… đều bị TQ đe dọa nghiêm trọng.
Chính sách “bốn điểm” do chính quyền Trump tuyên bố hôm 15/5 trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, gồm hoạt động tự do trên biển, ngoại giao pháp lý, hỗ trợ an ninh hàng hải, và giúp đỡ các nước ASEAN đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông với TQ, đúng như hai chuyên gia Bonnie Glaser và Gregory Poling (Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế, CSIS, của Mỹ) nhận định, đều không mới so với người tiền nhiệm Barack Obama, đồng thời không đủ để ngăn chặn TQ đe dọa tự do hàng hải trên Biển Đông.
Tuy nhiên, cần phải xem xét lại lợi ích toàn diện của Mỹ. Là cường quốc biển suốt cả trăm năm qua, hơn ai hết Mỹ hiểu rằng nếu để TQ thống trị Biển Đông, thì tiếp theo sẽ là châu Á và điều mà Mỹ có thể mất đi là “cả thế giới” do Mỹ dày công tính toán và thiết lập bằng một kiến trúc an ninh vững vàng.
Mỹ dù đang phải giải quyết chiến trường Syria, thỏa thuận hạt nhân Iran, vấn đề Bắc Triều Tiên, và các cuộc xung đột thương mại với các khối đồng minh, cũng phải tăng cường giám sát Biển Đông. Tiến sĩ Nguyễn Thành Trung, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS), ĐH Quốc gia TP.HCM nhận định “trong suốt nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Obama, hải quân Mỹ chỉ có sáu chuyến thực hiện “sứ mệnh bảo đảm tự do hàng hải” (FONOPS) quanh các đảo chiếm đóng. Tuy nhiên, từ đầu năm 2017 đến nay Mỹ đã thực hiện ít nhất bảy chuyến FONOPS. Ngoài ra, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ cũng tăng cường số ngày tàu chiến hiện diện ở khu vực biển Đông lên thêm 200 ngày/năm.
Tháng 3 vừa qua, hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ lần đầu tiên viếng thăm Việt Nam kể từ sau năm 1975. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis nhiều lần lặp lại sẽ không ngừng các hoạt động tuần tra tự do hàng hải. Giới quan sát đều cho rằng Mỹ chắc chắn không để yên cho TQ “đặt vào thế đã rồi”, tức trở thành người quyết định cục diện của khu vực”.
Các nhà lập pháp Mỹ, theo ông Nguyễn Thành Trung, cũng đang thảo luận về Đạo luật Sáng kiến bảo đảm châu Á tại Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện vào cuối tháng 4 vừa rồi. Nếu dự luật được thông qua, ngân sách cấp cho Bộ Quốc phòng Mỹ và Cơ quan Phát triển Quốc tế để bảo đảm ổn định, thúc đẩy ảnh hưởng của Mỹ và duy trì sự tuân thủ luật pháp quốc tế ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mỗi năm là khoảng 1,5 tỉ USD.
Kịch bản nào cho Mỹ – Trung?
Cục diện hiện nay cho thấy cả Mỹ và TQ đều không ai có ý định nhượng bộ. Liệu kịch bản nào sẽ xảy ra ở Biển Đông trong thời gian tới?
Kịch bản khiến cả hai nói riêng và khu vực nói chung lo lắng chính là chiến tranh quy mô lớn. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định, khả năng này rất khó xảy ra, khi TQ vẫn duy trì leo thang căng thẳng ở trong “vùng xám” và không vượt “lằn ranh đỏ”. Chiến lược “tằm thực”, vũ trang từng bước, chiếm biển từng phần của TQ đang tỏ ra hiệu quả khi vừa cưỡng ép được láng giềng, vừa không khiến Mỹ “vỡ bờ”. Bản thân Mỹ cũng còn quá nhiều vấn đề để lo hơn là dấn thân vào một cuộc chiến với TQ.
Phía Mỹ và TQ cũng không ít lần va chạm “nguy hiểm” tại Biển Đông. Năm 2013, tàu hải quân TQ suýt có sự va chạm nguy hiểm với tàu tuần dương có tên lửa dẫn đường USS Cowpens của Mỹ. Trước đó vào 2009, Lầu Năm Góc chỉ trích TQ khi nước này cho tàu tiếp cận sát tàu khảo sát hải dương học USNS Impeccable thuộc hải quân Mỹ, “có lúc chỉ cách nhau 7,5 mét”. Đến năm 2014, một máy bay chiến đấu của TQ đã áp sát máy bay trinh sát chống ngầm mang tên Poseiden của Hải quân Mỹ, mà theo mô tả của Mỹ là “nguy hiểm, không an toàn và không chuyên nghiệp”.
Ngoài ra, các hoạt động bay và dùng tàu chiến tuần tra tự do hàng hải của Mỹ tại các khu vực bị TQ chiếm đóng trái phép luôn khiến Bắc Kinh khó chịu. Điển hình như việc Mỹ tiếp cận đảo Tri Tôn, đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa; các đá Vành Khăn, Chữ Thập, Subi, v.v… ở Trường Sa, thách thức tuyên bố của TQ.
Trong bối cảnh như thế, nếu cả TQ và Mỹ vô ý va chạm trên biển, liệu chiến tranh có xảy ra?
Năm 2014, sau cuộc họp cấp cao giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Obama, hai bên thống nhất Bản ghi nhớ chung (MOU) giữa Mỹ và TQ về các Quy tắc Ứng xử An toàn trong các vụ đụng độ trên biển và trên không. Bản ghi nhớ này đề cập đến Công ước về các qui định quốc tế để phòng tránh đâm va trên biển (COLREG) năm 1972, các Điều luật về Va chạm, Bộ quy tắc ứng xử cho những chạm trán ngoài ý muốn trên biển (CUES), v.v…
Cho đến nay, sau nhiều “đụng độ” trên biển và trên không, chắc chắn phía Mỹ và TQ đã rút ra các bài học và thỏa thuận cơ bản để cả hai, trong trường hợp ngoài kiểm soát, có thể ngăn chặn một cuộc chiến.