Cùng với vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Biển Đông được coi là một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới. Để thực hiện những mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế và tăng cường vai trò, ảnh hưởng trên trường quốc tế, cũng như việc độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã, đang và sẽ tiếp tục có những hành vi bất chất luật pháp quốc tế nhằm thực hiện ý đồ đặt ra đối với khu vực này.
Vai trò của Biển Đông trên bàn cờ chiến lược của Trung Quốc
Đầu tiên, về yếu tố địa chính trị: Biển Đông có vai trò đặc biệt quan trọng để Trung Quốc hiện thực hóa tham vọng trở thành cường quốc biển và cường quốc thế giới. Tuy nhiên, không gian sinh tồn của Trung Quốc đang bị “kìm hãm” bởi các nước láng giềng. Nếu phát triển về phía Bắc, Trung Quốc phải đối mặt với vùng khí hậu khắc nghiệt và bị Nga chặn đường; phát triển sang phía Tây và Tây Nam, là vùng rừng núi hiểm trở, không thuận tiện cho việc giao thương; hướng sang phía Đông là Nhật Bản, Đài Loan, không thuận tiện cho quá trình lưu thông thương mại đối với khu vực và thế giới. Trong khi đó, ở phía Nam là các quốc gia nhỏ, không có mối quan hệ bền chặt với các siêu cường trên thế giới. Vì vậy, yêu tiên chiến lược duy nhất của Trung Quốc là tìm mọi cách đột phá xuống phía Nam, giành quyền kiểm soát Biển Đông để mở rộng “không gian sinh tồn” của Trung Quốc.
Thứ hai, nếu giành quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ giành được nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, đa dạng và dồi dào, đặc biệt là dầu khí và hải sản. Đối với Trung Quốc, đây là một thứ tài sản vô cùng quý giá để đáp ứng “cơn khát” năng lượng của mình. Biển Đông được đánh giá là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 – 20 năm tới. Tuy Biển Đông chiếm diện tích 2,5% bề mặt Trái đất, song nó là một trong những khu vực có trữ lượng hải sản rất dồi dào trên thế giới và cũng là một trong năm khu vực đánh bắt cá năng suất cao nhất trên thế giới, chiếm khoảng 12% tổng lượng đánh bắt cá toàn cầu trong năm 2015, mang về giá trị tới 21,8 tỷ USD. Tại thời điểm hiện tại, hơn một nửa tàu cá trên thế giới hoạt động trong vùng biển này, cung cấp công ăn việc làm cho khoảng 4 triệu người.
Thứ ba, giành quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ kiểm soát được nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng nhất thế giới, kiểm soát được tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á, kiểm soát được con đường vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Nếu kiểm soát được Biển Đông, làm chủ được các tuyến đường thương mại trên Biển Đông, Trung Quốc vừa có thể bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các đoàn vận chuyển dầu của mình từ Trung Đông, Bắc Phi về, mà còn áp đặt được ý chí chính trị của mình đối với các nước trong và ngoài khu vực có các hoạt động giao thương, vận chuyển liên quan đến các tuyến hàng hải trên Biển Đông, khống chế được Nhật Bản, Hàn Quốc, làm thất bại chiến lược “xoay trục” châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ, đồng thời tăng cường và mở rộng tầm ảnh hưởng trên nhiều lĩnh vực đối với các nước ASEAN. Theo số liệu thống kê, Biển Đông là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 – 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.
Thứ tư, khống chế, làm chủ được Biển Đông là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để Trung Quốc thực hiện được tham vọng nước lớn, hiện thực hóa giấc mơ Đại Trung Hoa. Ngược lại, nếu mất quyền kiểm soát Biển Đông, bị phong tỏa các tuyến giao thông huyết mạch qua Biển Đông, nguồn cung năng lượng cho Trung Quốc bị gián đoạn, nền kinh tế, xã hội của Trung Quốc sẽ bị tác động nghiêm trọng. Chính vì vậy, trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc đã, đang nỗ lực thúc đẩy nhiều hoạt động nhằm kiểm soát toàn bộ Biển Đông bằng nhiều biện pháp.
Trung Quốc đang triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm độc chiếm Biển Đông
Về mặt pháp lý: Trung Quốc đẩy mạnh việc công bố, tuyên truyền các văn bản pháp quy quan trọng về quản lý, quy hoạch biển, cụ thể: Trung Quốc công bố “Cương yếu quy hoạch đất đai toàn quốc Trung Quốc năm 2016, tầm nhìn năm 2030”; Luật an toàn giao thông biển sửa đổi; Đại cương “Phương án sử dụng và khai thác hải đảo không người cư trú”; Quốc vụ viện Trung Quốc cũng phê chuẩn “Phương án giám sát Hải dương”; Trung Quốc lần đầu công bố Sách Trắng về “Chính sách hợp tác an ninh châu Á – Thái Bình Dương”, trong đó có nội dung xuyên tạc cho rằng “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) và vùng nước phụ cận”. Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc cũng trao Cục Hải dương Quốc gia quyền giám sát quản lý các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, kiểm soát, giám sát tàu thuyền và thiết bị, hoạt động hàng hải của nước ngoài trong vùng biển “thuộc quyền tài phán” của Trung Quốc… đối với các địa phương ven biển và cơ quan thực thi luật biển.
Các địa phương ven biển của Trung Quốc đưa ra các quy định, kế hoạch quản lý, giám sát, phát triển về sử dụng, khai thác, kiểm tra giám sát và bảo vệ môi trường biển. Tỉnh Hải Nam Trung Quốc đã công bố “Quy hoạch phát triển du lịch tổng thể năm 2016-2020”, khẳng định sẽ nâng cấp các sản phẩm du lịch dưới nhiều hình thức nhằm kết nối (trái phép) Hải Nam và Hoàng Sa; cái gọi là “Thành phố Tam Sa” thông qua phương án “Quy hoạch thực thi đồng bộ dịch vụ cảng Phú Lâm”; kế hoạch phát triển các nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển theo Quy hoạch 5 năm lần thứ 13; Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (Bộ Nông nghiệp nông thôn Trung Quốc thông báo tạm ngừng đánh cá có thời hạn từ 12h ngày 1/5/2018 đến 12h ngày 16/8/2018 ở Biển Đông, vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến – Quảng Đông kể cả Vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.)… nhằm phối hợp với chiến lược tổng thể của Chính phủ Trung Quốc, nhất là việc triển khai phát triển du lịch ở Biển Đông, để từng bước hợp thức hóa cơ sở hạ tầng tại khu vực chiếm đóng phi pháp.
Về kinh tế, khoa học kỹ thuật: Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động củng cố kiểm soát trên thực địa bằng nhiều biện pháp trong đó tập trung vào các hoạt động dân sự có hàm lượng công nghệ cao; cung cấp dịch vụ công cho hoạt động hàng hải ở khu vực. Không những vậy, Trung Quốc cũng lợi dụng việc phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật để gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, chia rẽ đoàn kết trong nội bộ ASEAN, ép buộc một số nước phải lệ thuộc và ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Về hoạt động quân sự: Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, chế tạo trang thiết bị quân sự mới như hoàn thiện tàu sân bay nội địa đầu tiên; thử nghiệm các loại vũ khí chiến lược có tính răn đe cao như tên lửa Đông Phong 5C (DF-5C), Đông Phong 16 (DF-16), máy bay tiêm kích J-20…; tăng cường các hoạt động tập trận bắn đạn thật ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; triển khai (bất hợp pháp) tên lửa phòng không HQ-9B và tên lửa chống hạm YJ-12B trên 3 thực thể địa lý đã bị Trung Quốc bồi lấp trái phép thành đảo nhân tạo gồm đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam); triển khai tàu chiến, radar, pháo phòng không ra Biển Đông…
Về hoạt động trong lĩnh vực dân sự: Trung Quốc đang đẩy nhanh quy hoạch quản lý biển, hỗ trợ cung cấp dịch vụ công nhằm đảm bảo an toàn hàng hải trong khu vực, cụ thể: Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thiện việc đặt tên cho 255 cấu trúc ở Biển Đông, mở chi nhánh của Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) tại cái gọi là “thành phố Tam Sa”, thử nghiệm các chuyến bay dân sự, cho phép “Công ty vận tải tư nhân Hải Hiệp” đưa khách du lịch (đoàn viên thanh niên, sinh viên ra Hoàng Sa); xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng lớn về giao thông liên lạc, năng lượng, phủ sóng mạng di động, bệnh viện, rạp chiếu phim… ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt chiến lược: Trung Quốc tìm mọi cách buộc Mỹ phải ra khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương bằng cách gây hao mòn chiến lược và chính trị hoặc đẩy Mỹ vào tình thế bị động chiến lược bằng chính sách bên miệng hố chiến tranh hiếu chiến trên tất cả các vùng biển Tây Thái Bình Dương. Đồng thời, Trung Quốc tăng cường sức mạnh hải quân để thu hẹp khoảng cách với ưu thế hải quân vượt trội của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Mục tiêu rộng hơn là tạo ra khả năng triển khai lực lượng không chỉ ở vùng duyên hải của Trung Quốc mà còn cả ở Ấn Độ Dương. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tìm cách duy trì các tranh chấp trên Biển Đông luôn ở mức độ áp lực vừa phải để Mỹ không thể trực tiếp can thiệp quân sự, nhưng vẫn đủ để gây sức ép chiến lược với Mỹ. Đối với các nước ASEAN, Trung Quốc vừa thực hiện chiến lược lôi kéo, vừa tìm cách chia rẽ đoàn kết ASEAN nhằm ngăn chặn khu vực hóa những tranh chấp Biển Đông.