Monday, November 18, 2024
Trang chủBiển nóngĐánh giá hoạt động quân sự của TQ ở Biển Đông từ...

Đánh giá hoạt động quân sự của TQ ở Biển Đông từ khía cạnh luật quốc tế

Năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Năm 1974, quân đội Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm toàn bộ các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục sử dụng vũ lực để chiếm đóng 6 thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa. Những hoạt động quân sự trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế đương đại như Hiến chương LHQ, UNCLOS.

Hoạt động chiếm giữ và xây dựng phi pháp các điểm đảo ở Biển Đông:

Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đóng đa số các thực thể địa lý ở Biển Đông. Năm 1956, Trung Quốc đã lợi dụng khoảng trống bố phòng mà quân đội Pháp vừa mới rút đi để đưa quân chiếm đóng phía Đông quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 1974, quân đội Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm toàn bộ các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục sử dụng vũ lực để chiếm đóng 6 thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa gồm: Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma, Xu Bi, Huy Gơ (Tư Nghĩa), Ga Ven. Năm 1995, Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng bãi cạn nửa nổi nửa chìm Vành Khăn. Năm 2005, Trung Quốc mở rộng chiếm đóng bãi cạn nửa nổi nửa chìm Bàn Than. Trung Quốc hiện tại đang chiếm đóng trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 9 thực thể địa lý ở quần đảo Trường Sa. Có thể khẳng định rằng, việc chiếm đóng bằng vũ lực này hoàn toàn đi ngược lại với luật pháp quốc tế hiện đại và sẽ không bao giờ được xem như một phương thức hợp pháp xác lập chủ quyền.

Từ khía cạnh luật quốc tế, sự chiếm đóng của Trung Quốc trên các đảo, đá và bãi cạn nửa nổi nửa chìm ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đều vi phạm luật pháp quốc tế và do đó, mọi hoạt động quân sự diễn ra ở hai quần đảo này đều không thể có lý lẽ nào để biện hộ. Không dừng lại ở đó, Trung Quốc đã và đang tiến hành nhiều động thái nhằm thay đổi nguyên trạng.

Tại quần đảo Hoàng Sa, lợi dụng tình trạng kiểm soát trên thực tế toàn bộ quần đảo này. Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động quân sự. Điển hình là: năm 2014, Trung Quốc xây đường băng trên đảo Phú Lâm có chiều dài 2 000m và sau đó là điều máy bay chiến đấu ra đảo Phú Lâm; năm 2016, nước này xây dựng căn cứ trực thăng quân sự trên đảo Quang Hòa và bố trí tên lửa đất đối không HQ-9 trên đảo Phú Lâm.

Tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hoạt động đáng chú ý nhất là kể từ năm 2014 Trung Quốc đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng và cải tạo đá Tư Nghĩa, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Xu Bi. Cụ thể:

Đá Tư Nghĩa bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988: Trước năm 2014, trên đá Tư Nghĩa chỉ có một công trình kiên cố có diện tích 380m2. Hoạt động xây đảo này bắt đầu được phát hiện vào khoảng giữa tháng 8/2014. Đá Tư Nghĩa có diện tích xây dựng năm 2012 là 4.128m2, nay đã được mở rộng là 62.710m2, tính đến ngày 18/02/2015. Các công trình được xây dựng kiên cố gồm: các công sự ven biển, bốn pháo phòng thủ, cầu cảng, cơ sở quân sự đa cấp, trạm radar, bãi đáp trực thăng, hải đăng. Hiện các hoạt động xây dựng của Trung Quốc trên đá Tư Nghĩa vẫn đang diễn ra.

Đá Ga Ven: Trung Quốc xâm chiếm năm 1988 và đưa quân đồn trú trái phép tại đây từ năm 2003. Trung Quốc đã xây dựng tại phía Tây đá Ga Ven một bãi lớn bằng bê tông, một bến tàu cùng nhiều ụ súng, radar và các thiết bị thông tin liên lạc khác. Từ khoảng thời gian giữa tháng 4 và tháng 8/2014, Trung Quốc đã đào một kênh tại trung tâm của đá Ga Ven để lấy đất bồi thành một hòn đảo hình chữ nhật với kích thước xấp xỉ 300m x 250m. Phần mở rộng có diện tích 114.000m2, tính đến ngày 19/3/2015. Trên đá này, Trung Quốc xây dựng kênh tiếp cận, bệ súng phòng không, thiết bị liên lạc, tháp phòng thủ, cơ sở quân sự, bãi đáp trực thăng và đê chắn sóng.

Đá Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988: Ban đầu, các công trình xây dựng của Trung Quốc tại Gạc Ma chỉ là vài kết cấu hình “bát giác” xây trên cọc gỗ. Đến năm 1989, tại đây đã xuất hiện thêm hai tháp xi măng tròn, một ngôi nhà hai tầng cũng bằng xi măng, một ăng ten liên lạc vệ tinh cao 2,5m và liền kế bên một cột ăng-ten cao 2,4m. Đến thời điểm đầu năm 2013, các công trình nhân tạo trên đá Gạc Ma chỉ là một bãi nhỏ bằng bê tông được trang bị một số phương tiện thông tin liên lạc UHF/VHF, trạm radar, súng phòng không cùng với một bến tàu. Từ cuối năm 2013, các hình ảnh vệ tinh đã cho thấy sự hiện diện của tàu Tian Jing Hao tại khu vực đá Gạc Ma, mở đầu cho các hoạt động biến đá Gạc Ma này thành đảo nhân tạo. Đá Gạc Ma có diện tích xây dựng năm 2012 khoảng 4.128m2, nay Trung Quốc đã xây dựng lên 10,9ha (109.000m2), bao gồm sáu công trình khác nhau với một khu vực cảng. Đảo này sẽ trở thành khu căn cứ quân sự tổng hợp, có thể đốn các tàu tải trọng lên tới trên 5.000 tấn, có đường băng dài 1,6km đủ cất và hạ cánh các loại máy bay chiến đầu.

Đá Chữ Thập nằm ở phía Tây quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988. Trước năm 2014, trên đá Chữ Thập chỉ có một trạm đồn trú của lính thủy đánh bộ của Trung Quốc, cũng với một số thiết bị radar giám sát, một nhà trồng rau, một sân bay trực thăng, một số bệ súng và pháo cùng hệ thống súng phóng lựu chống biệt kích DP-65. Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động cải tạo đảo tại đây từ tháng 8/2014. Ảnh vệ tinh tháng 6/2015 cho thấy, phần diện tích được Trung Quốc cải tạo trên đá Chữ Thập đã lên tới 2,79km2 (2.790.000m2), trở thành đảo nhân tạo lớn nhất Trường Sa. Nơi đây, sẽ trở thành một căn cứ hải lục, không quân hoàn chỉnh của Trung Quốc.

Đá Châu Viên nằm ở phía Tây quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988. Trước năm 2013, các công trình nhân tạo được Trung Quốc xây dựng trên đá Châu Viên chỉ bao gồm căn cứ và một hệ thống khí tài được gia cố có khả năng chịu được sức gió lên đến 130 km/giờ. Căn cứ này có thể sử dụng làm nơi neo đậu cho các tàu tuần tra cỡ nhỏ của Trung Quốc. Ngày 13/9/2014, truyền thông nhà nước của Trung Quốc công bố hình ảnh chụp các công trình được xây dựng trên đá Châu Viên tương tự như những gì Trung Quốc xây dựng trên đá Gạc Ma. Diện tích phần cải tạo trên đá Châu Viên được mở rộng tới 119.711m2, tính đến ngày 14/3/2015. Những công trình xuất hiện tại đây gồm kênh tiếp cận, đê chắn sóng, bãi đáp trực thăng, các tòa nhà hỗ trợ, cơ sở quân sự, ăng-ten liên lạc vệ tinh, radar. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy, nhiều công trình vẫn đang tiếp tục được xây dựng.

Đá Xu Bi là một rạn san hô vòng thuộc quần đảo Trường Sa, dài khoảng 6,5km, rộng 3,7km; bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1988. Trước đây, Trung Quốc đã cho xây dựng một bãi đáp trực thăng, một đồn gác nhỏ làm bằng bê tông để quân đội luân phiên đóng dân tàu hải quân tiến vào vùng biển bên trong. Đến tháng 5/2012, Trung Quốc cho xây thêm một radar hình vòm đặt trên đỉnh của tòa nhà bốn tầng được xây kiên cố tại đây. Phần đất cải tạo trên đảo được mở rộng đáng kể từ tháng 7/2014. Tới ngày 17/4/2015, hoạt động bồi đắp ở đá Xu Bi đã mở rộng lên tới 2,27km2 (2.270.000m2); truyền thông Trung Quốc đã khẳng định, kích thước của đá Xu Bi đã tăng thêm 1,8km2 (1.800.000m2). Trung Quốc hiện đã xây dựng trên đá Xu Bi các công trình gồm có: kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố, bãi đáp trực thăng, cơ sở quân sự và có khả năng Trung Quốc sẽ xây một đường băng dài khoảng 3.300m, có thể tiếp nhận được hầu hết các loại máy bay chiến đấu của lực lượng Trung Quốc.

Đá Vành Khăn nằm ở phía Đông quần đảo Trường Sa, bị Trung Quốc chiếm năm 1995 từ Philippines. Cho tới cuối năm 2014, các công trình nhân tạo duy nhất tại bãi đá này chỉ gồm một trạm gác, một đồn quân sự với các tàu chiến và các tàu tuần tra biển của Trung Quốc. Ngày 05/02/2015, Trung Quốc bắt đầu cho tàu nạo vét các đảo. Chỉ sau vài tháng, Trung Quốc đã biến đá Vành Khăn trở thành một đảo nhân tạo có diện tích 2,42 km2 (2.420.000m2), tính đến ngày 13/4/2015. Hiện Trung Quốc vẫn đang đẩy nhanh tốc độ mở rộng đảo nhân tạo trên đá Vành Khăn, với sự hiện diện của tàu chiến đổ bộ, có khả năng chứa 500-800 quân tuần tra quanh đó.

Như đã khẳng định, Trung Quốc không xác lập chủ quyền một cách hợp pháp đối với các đá và bãi cạn ở Biển Đông. Do vậy mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động quân sự đều vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế về nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của quốc gia khác. Không dừng lại ở đó, đây là hành vi “làm thay đổi nguyên trạng”, “làm phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định”.

Theo quy định của luật pháp quốc tế, chỉ có quốc gia ven biển mới có đặc quyền xây dựng đảo nhân tạo trong nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của mình và vùng biển cả căn cứ theo Điều 60, Điều 80 và điểm d khoản 1 Điều 87 UNCLOS 1982. Các vị trí mà Trung Quốc đã và đang tiến hành bồi lấp xây dựng đảo nhân tạo thì nước này không có đặc quyền xây dựng các đảo nhân tạo vì không nằm trong các nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc và không phải là biển cả. Do đó, hành vi này vi phạm nghiêm trọng UNCLOS 1982.

Ngoài ra, Biển Đông là một trong những huyết mạch giao thương hàng hải của thế giới. Việc xây dựng các đảo nhân tạo có tác động trực tiếp đến các quyền tự do hàng hải, tự do hàng không. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, từng bước quân sự hóa để hiện thực hóa yêu sách “Đường 9 đoạn” và tham vọng của Trung Quốc là kiểm soát toàn bộ hoạt động hàng hải và hàng không đi qua Biển Đông. Đây mới chính là điều đi ngược lại lợi ích của cộng đồng quốc tế.

Một số hoạt động quân sự đáng chú ý của Trung Quốc

Ngày 11/6/2009, một tàu ngầm của hải quân Trung Quốc va chạm với thiết bị cảm biến sóng siêu âm của tàu khu trục USS John S.McCain gần Vịnh Subic ngoài khơi bờ biển Philippines. Ngày 31/5/2011, ba tàu quân sự của Trung Quốc sử dụng súng để đe dọa các đội gồm bốn tàu đánh cá Việt Nam trong khi họ đang đánh bắt cá trong vùng biển của quần đảo Trường Sa. Tháng 6/2012, Trung Quốc tuyên bố triển khai các tàu tuần tiễu hải quân sẵn sàng chiến đấu ở Biển Đông. Đáng chú ý nhất là sự kiện từ ngày 01/5-15/7/2014, một lực lượng hơn 80 tàu trong đó có bảy tàu chiến bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981, cố ý đâm va và phun vòi rồng vào các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư của Việt Nam. Đặc biệt trong thời gian rất ngắn ngay trước và sau phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS 1982, Trung Quốc đã tiến hành tập trận với quy mô lớn. Cụ thể, ngày 5-11/7/2016 Trung Quốc diễn tập với nhiều khí tài tối tân và tháng 8/2016, hải quân Trung Quốc đã có cuộc tập trận chung với Nga ở đảo Hải Nam và Hoàng Sa.

Việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực, thậm chí là quân đội chính quy, đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được pháp điển hóa trong Hiến chương Liên Hợp quốc 1945 và Tuyên bố 1970, cụ thể:

Một là, vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945. Trung Quốc đã dựa vào vị thế nước lớn nên tự cho mình có nhiều quyền và lợi ích trên biển hơn quốc gia khác, từ đó, tiến hành hàng loạt hoạt động quân sự nhằm “bảo vệ” cho những quyền và lợi ích đó bất chấp việc xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền, lợi ích hợp pháp của những quốc gia nhỏ hơn.

Hai là, vi phạm nguyên tắc các quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình quy định tại khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945. Ở cả ba vùng biển mà Trung Quốc tiếp giáp đều có tranh chấp quốc tế, ngược hẳn với tinh thần nguyên tắc này, Trung Quốc càng thúc đẩy hiện đại hóa quân đội, triển khai hoạt động quân sự trên biển ở cường độ cao hơn.

Ba là, vi phạm nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc 1945: “Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào dưới bất kỳ hình thức nào trái với những mục đích của Liên Hợp quốc”. Trung Quốc đã và đang sử dụng vũ lực trên các vùng biển thông qua hàng loạt hoạt động quân sự, trực tiếp xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và các quyền, lợi ích trên biển của quốc gia khác, đe dọa đến hòa bình và an ninh khu vực cũng như trên thế giới trước nguy cơ chiến tranh quân sự.

Bốn là, nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda). Trung Quốc đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế cả song phương lẫn đa phương. Việc sử dụng vũ lực, sẵn sàng điều động lực lượng quân đội ngoài vi phạm những quy định chung của luật quốc tế còn vi phạm tất cả các cam kết song phương và đa phương của nước này.

Bên cạnh đó, hoạt động quân sự trên biển của Trung Quốc cũng vi phạm các nguyên tắc và quy định của luật biển quốc tế, cụ thể:

Vi phạm quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không. Trước cường độ hoạt động quân sự trên biển của Trung Quốc, an ninh hàng hải và hàng không bị ảnh hưởng rất lớn, quyền tự do hàng hải và quyền đi qua không gây hại của các quốc gia khác cũng như quyền tự do hàng không bị thu hẹp và phải đối mặt với nguy cơ mất an toàn cho sức khỏe và tính mạng con người và rủi ro tổn thất hàng hóa. Đặc biệt, đối với các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng ở Trường Sa và yêu sách vùng nước xung quanh các đảo nhân tạo đó đã làm rối loạn tuyến đường giao thông huyết mạch này. ADIZ ở Biển Hoa Đông và nguy cơ Trung Quốc thiết lập ADIZ ở Biển Đông gây ra sự mất ổn định cũng như an ninh và an toàn của các tuyến bay.

Vi phạm vào các “đặc quyền kinh tế” của quốc gia khác. Trong luật biển quốc tế, chỉ có quốc gia ven biển mới có đặc quyền xây dựng đảo nhân tạo trong nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình căn cứ theo Điều 60 và Điều 80 UNCLOS 1982. Các vị trí mà Trung Quốc đã và đang tiến hành hoạt động quân sự để bồi lấp xây dựng đảo nhân tạo thì không nằm trong các nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc nên nước này không có quyền xây dựng các đảo nhân tạo.

Vi phạm nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. UNCLOS 1982 tại Điều 279 quy định nghĩa vụ bắt buộc đối với các quốc gia phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Trong khi đó, Trung Quốc lại tăng cường hoạt động quân sự trên biển, sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong các tranh chấp trên biển.

Hoạt động quân sự phi pháp trên biển của Trung Quốc còn có tác động tiêu cực đến thương mại quốc tế và môi trường sống

Về thương mại quốc tế, trước tình hình an ninh hàng hải và an ninh hàng không không được đảm bảo, có thể khẳng định rằng thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Như đã nhiều lần đề cập, Biển Đông là một tuyến đường huyết mạch trong thương mại quốc tế. Hoạt động quân sự của Trung Quốc đã gây mất trạng thái an ninh của Biển Đông và đương nhiên để lại nhiều hệ lụy cho thương mại quốc tế.

Về môi trường sống, hành động bồi lắp xây đảo nhân tạo của Trung Quốc gây hủy diệt các rạn san hô và thềm lục địa. Ít nhất 121ha san hô đã bị phá hủy, chiếm gần 30% số lượng các rạn san hô tự nhiên. Từ tháng 02/2014 đến tháng 5/2015, cứ 10,7km2 đất được bồi lắp để xây đảo nhân tạo thì có khoảng 11,6km2 (26,9%) rạn san hô bị hủy diệt. Từ đó, dòng chảy thủy triều bị thay đổi có thể gây xói lở ở một số bờ biển, sinh vật biển cũng bị tác động xấu bởi tiếng ồn của viêc xây dựng, nhiệt độ nước biển tăng lên, hóa chất và những thay đổi về điều kiện tự nhiên của biển. Bên cạnh đó, sự thay đổi của nguồn sản vật biển ảnh hưởng đến hoạt động khai thác bình thường và lâu đời của ngư dân các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam và Philippines.

Nhìn chung, từ khía cạnh luật quốc tế, các hoạt động quân sự trên Biển Đông của Trung Quốc đa phần đều vi phạm luật pháp quốc tế. Những hoạt động nhằm xâm chiếm chủ quyền của các nước ven Biển Đông; răn đe các nước can thiệp, tăng cường hiện diện và tuần tra tự do hàng hải, hàng không trong khu vực; đồng thời thể hiện quyết tâm độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.

RELATED ARTICLES

Tin mới