Trong những năm gần đây, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp và căng thẳng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên xuất phát từ vị trí địa chiến lược, tài nguyên dầu khí, hải sản ở Biển Đông và hành động ngang ngược của Trung Quốc gây ra.
Trong những năm qua, tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định cho khu vực và thế giới. Vì thế, vấn đề Biển Đông luôn là mối quan tâm của các nước trong khu vực, các nước lớn và cả cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, bởi liên quan đến nhiều nước, nhiều bên.
Nguyên nhân khiến tình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông ngày càng căng thẳng:
Về Năng lượng: Mặc dù sự thực về trữ lượng dầu mỏ dưới Biển Đông vẫn chưa bao giờ được phân tích một cách đầy đủ, nhưng khu vực này lại thường được cho là có trữ lượng lớn dầu, khí. Vào năm 1993-1994, Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) ước tính rằng tổng lượng dầu khí, bao gồm đã được phát hiện và chưa, tại Biển Đông là vào khoảng 28 tỷ thùng. Trong khi đó, Bộ Từ điển Bách khoa Toàn thư Thế giới lại ước tính lượng dầu đã được phát hiện tại Biển Đông là vào khoảng 7 tỷ thùng. Con số ước tính về trự lượng năng lượng tại Biển Đông của Trung Quốc đưa ra còn nhiều hơn, con số ước tính của họ mang ý nghĩa rất đặc biệt. Một con số ước tính vừa phải cho rằng tổng lượng nguồn dầu khí tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa xấp xỉ 105 tỷ thùng, và trữ lượng trên toàn bộ Biển Đông có thể lên tới 213 tỷ thùng. Biển Đông thường được truyền thông Trung Quốc coi là khu vực giàu tài nguyên dầu khí.
Kỳ vọng về trữ lượng dầu mỏ xa bờ tại Biển Đông có thể là nhân tố khiến cho Trung Quốc hành động liều lĩnh hơn tại đây. Theo nghiên cứu gần đây của các học giả Trung Quốc, ngay từ năm 2009, lượng nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc đã lên tới 53,6% tổng lượng tiêu thụ dầu nước này, tương đương 200 triệu tấn. Nếu như xu hướng này tiếp tục, thì vào năm 2020, Trung Quốc sẽ nhập khẩu từ 60 đến 80% tổng lượng tiêu thụ dầu của nước này. Do đó Trung Quốc sẽ ngày càng trở nên dễ bị tổn thương hơn đối với thị trường dầu mỏ toàn cầu. Do vậy, việc mở rộng sản xuất dầu mỏ trong nước có thể là chiến lược mà Trung Quốc có thể hướng đến nhằm giảm sự phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu mỏ.
Khả năng cao về việc khai thác dầu tại Biển Đông, cùng với đó là giá trị kinh tế mà nó đem lại cho các quốc gia yêu sách, và khả năng khai thác tại khu vực nước sâu mà Trung Quốc đạt được mới đây đã dẫn đến việc gia tăng tần suất những vụ va chạm tại Biển Đông trong vấn đề khai thác dầu. Vào tháng 5 và tháng 6/2011, các tàu chấp pháp biển và tàu cá Trung Quốc đã cắt đứt cáp khảo sát của hai tàu khảo sát dầu của Việt Nam khi hai chiếc tàu này đang hoạt động hoàn toàn trong vùng EEZ của Việt Nam. Vào năm 2011, Philippines cũng cho biết có 7 vụ va chạm mà tàu của Trung Quốc đã va chạm với các tàu khảo sát dầu khí của Philippines. Vào năm 2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 trong khu vực thềm lục địa của Việt Nam.
Đánh bắt hải sản
Biển Đông có hệ sinh thái rất phong phú, cung cấp các sản phẩm thủy sản có giá trị cao và các lợi ích kinh tế khác cho tất cả các quốc gia ven biển. Với 2500 loài cá biển và 400 đến 500 loài san hô cứng (hard coral), hệ sinh thái tại Biển Đông phong phú hơn nhiều so với dãy đá ngầm san hô Great Barrier Reef của Australia hay Vịnh Ca-ri-bê. Biển Đông chiếm 10% sản lượng cá toàn cầu. Ước tính sơ bộ cho thấy rằng hơn 500 triệu người Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Indonesia sống phụ thuộc vào Biển Đông.
Theo thống kê của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO), năm 2009, Trung Quốc là quốc gia sản xuất các sản phẩm thủy sản lớn nhất thế giới. Trung Quốc sản xuất lên tới 34,8 triệu tấn, tương đương 62,5% tổng lượng sản xuất sản phẩm thủy sản toàn cầu. Tại Đông Nam Á, 4 quốc gia đứng đầu về sản xuất sản phẩm thủy sản là Việt Nam (2,6 triệu tấn), Indonesia (1,7 triệu tấn), Thái Lan (1,4 triệu tấn) và Myanmar (778 trăm nghìn tấn). Đánh bắt cá tại Biển Đông đóng góp 3,6 triệu tấn, tương đương 25% tổng lượng đánh bắt của Trung Quốc năm 2004. Trung Quốc là nước có đội tàu cá đông nhất thế giới (khoảng 450.000 tàu cá), trong đó khoảng 200.000 tàu đánh cá đại dương. Hàng năm, số tàu cá Trung Quốc khai thác, đánh bắt khoảng 71 triệu tấn cá ở khu vực Biển Đông. Theo số liệu thống kê, Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về tốc độ phát triển nghề cá. Năm 1980, khi châu Á chiếm 43% sản lượng cá thế giới, Trung Quốc mới chỉ chiếm 7%. Đến năm 2013, châu Á chiếm 68% thì Trung Quốc đã chiếm 32%, mang lại cho nền kinh tế nước này 289 tỷ USD. Đồng thời, Trung Quốc cũng điều chỉnh nhiều chủ trương, chính sách liên quan việc khai thác, đánh bắt hải sản. Theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc về ngư nghiệp, Bắc Kinh đề ra mục tiêu cao đối với sản xuất cá. Từ năm 2016, đạt 73 triệu tấn vào năm 2020 và tiến đến đạt 77 triệu tấn vào năm 2024; tăng xuất khẩu lên 5,4 triệu tấn vào năm 2024. Theo tiến sĩ Euan Graham (Đại học Công nghệ Nanyang – Singapore), hiện Trung Quốc đã cấp phép cho trên 500 tàu cá hoạt động tại vùng biển Trường Sa. Từ việc Trung Quốc tăng cường hậu thuẫn cho ngư dân đánh bắt hải sản trên Biển Đông đã khiến nguồn lợi hải sản ngày càng cạn kiệt. Theo Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Mỹ (CSIS), tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong vòng 20 năm qua; đến năm 1990, sản lượng cá ở một số khu vực ở Biển Đông đã giảm 90% so với những năm 1960. Số lượng loài cá mú chấm nhỏ trong vòng 8 năm qua đã giảm 80%. Một số loài hiện nay đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng. FAO mới đây công bố bản đồ về điều tra trữ lượng cá ở Biển Đông cho thấy các ngư trường phía Bắc Biển Đông (giáp Trung Quốc), Vịnh Bắc Bộ, và phía Tây Biển Đông (giáp Việt Nam) đã bị khai thác hầu như cạn kiệt.
Các đội tàu đánh bát xa bờ hiện đại của các quốc gia yêu sách tại Biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc, đã tạo ra sự gia tăng số lượng các vụ va chạm giữa các ngư dân, gây ra căng thẳng khu vực. Tàu Hải Nam Bảo Sa, con tàu chế biến thủy sản không lồ cùng với đội tàu hỗ trợ đã được công bố vào tháng 5/2012 và được đưa tới Biển Đông để thu mua cá của các tàu cá. Chiếc tàu nặng 32.000 tấn, là con tàu chế biến thủy sản lớn nhất của Trung Quốc, nó có thể chở khoảng 600 công nhân làm việc với 14 dây chuyển sản suất, 4 nhà máy sản xuất có thể chế biến lên tới 2.100 tấn thủy sản mỗi ngày, là một trong 4 con tàu chế biến thủy sản lớn nhất thế giới. Đi cùng với nó còn có tàu chở dầu 20.000 tấn, 2 chiếc tàu vận tải 10.000 tấn và 3 tàu hậu cần từ 3.000 đến 5.000 tấn. Con tàu cho phép các tàu đánh bắt cá của Trung Quốc ở lại lâu hơn tại các vùng đánh bắt cá nước sâu vì họ sẽ không còn phải vào bờ để bốc dỡ sản phẩm của mình.
Ngoài việc đánh bắt cá phục vụ các mục đích kinh tế, Chính phủ Trung Quốc cũng tăng cường đầu tư, viện trợ cho ngư dân ra đánh bắt cá tại các khu vực tồn tại tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông như ngư trường xung quanh quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa nhằm thực hiện âm mưu kiểm soát toàn bộ khu vực này. Tạp chí Science Advances cho biết, khoảng 54% ngành công nghiệp đánh bắt cá xa bờ sẽ không đạt lợi nhuận với quy mô như hiện nay nếu không có những khoản trợ cấp lớn của chính phủ. Theo thống kê, Trung Quốc trợ cấp 148 triệu USD cho các đội tàu đánh bắt xa bờ năm 2014, chiếm 10% toàn cầu. Khoản tiền này chủ yếu dùng để mua nhiên liệu cho tàu cá hoạt động ở vùng biển xa. Bắc Kinh cũng giúp ngư dân điều tra ngư trường Trường Sa và trợ cấp nguyên liệu cho ngư dân đánh bắt cá tại đây. Đáng chú ý, Trung Quốc còn huy động lực lượng hải cảnh Trung Quốc sẵn sàng tiếp tế xăng dầu cho tàu cá, thậm chí ra tay can thiệp khi tàu cá bị cơ quan hành pháp của nước khác truy đuổi, bắt giữ vì hành vi đánh bắt trộm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Vấn đề quân sự và an ninh
Nguyên nhân quân sự và an ninh đối với những xung đột tiềm tàng ở Biển Đông thể hiện ở hai khía cạnh: giá trị quân sự tại Biển Đông và sự hiện đại hóa quân đội của các quốc gia ven biển. Với độ sâu trung bình là 1.400 m, độ sâu nhất là 7.352 m, Biển Đông là ranh giới biển sâu nhất của Trung Quốc. Trên khía cạnh chiến lược quân sự, bản chất địa lý này tạo ra những điều kiện thuận lợi cần thiết để Trung Quốc phát triển tàu sân bay và tàu ngầm hiện đại. Do đó, một số học giả đã ví Biển Đông như “Địa Trung Hải châu Á”.
Ngoài ra, Biển Đông còn là một trong những tuyến giao thương biển (SLOC) lớn nhất thế giới. Hai phần ba lộ trình thương mại toàn cầu đều đi qua khu vực này. Tuyến đường này nắm giữ vai trò thiết yếu đối với an ninh và phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, hai đồng minh Châu Á quan trọng của Mỹ, do 90% nguồn cung năng lượng của 2 quốc gia trên đều vận chuyển qua Biển Đông. Bất cứ quốc gia nào kiểm soát được Biển Đông sẽ có lợi thế về chiến lược trong việc kiểm soát toàn bộ khu vực Đông Á. Điều đó phần nào giải thích vì sao các cường quốc, kể cả các quốc gia ngoài khu vực, luôn theo dõi sát sao các vấn đề tại Biển Đông, tạo ra môi trường căng thẳng trong khu vực.
Trong thập kỷ qua, các quốc gia ven biển tại Biển Đông đã tăng cường ngân sách chi tiêu cho việc hiện đại hóa và mở rộng hải quân nhằm củng cố yêu sách của mình tại đây. Các cường quốc ngoài khu vực (một lần nữa đáng chú ý nhất lại là Mỹ) cũng tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực. Một số gọi xu hướng này là “chạy đua vũ trang” khu vực Biển Đông, đây là điều chắc chắn sẽ làm xói mòn các nỗ lực xây dựng lòng tin giữa các quốc gia liên quan.
Sự hiện đại hóa hải quân Trung Quốc là vấn đề đáng chú ý nhất trong số các quốc gia ven biển tại Biển Đông. Ngân sách quân sự của Bắc Kinh đã gia tăng nhanh chóng từ 6,13 tỷ USD vào năm 1990 lên đến 14,5 tỷ USD năm 2000, 29,5 tỷ USD năm 2005 và 70,3 tỷ USD năm 2009. Tăng thêm những lo ngại của các quốc gia yêu sách khác tại Biển Đông, chiến lược quân sự của Bắc Kinh đã chuyển từ việc dựa vào các lực lượng trên mặt đất sang tập trung nhiều hơn vào Hải quân cùng với Lực lượng Không quân và Binh đoàn Pháo binh số 2, một lực lượng phát triển vũ khí chiến lược.
Sự thay đổi ưu tiên quân sự của Trung Quốc tạo ra thách thức đối với các lực lượng hải quân của các quốc gia trong và ngoài khu vực. Vào cuối năm 2007 và đầu 2008, cộng đồng quốc tế đã phát hiện ra Trung Quốc xây dựng một căn cứ hải quân rất lớn cho các tàu sân bay và tàu ngầm của nước này tại bờ biển phía Nam đảo Hải Nam. Bắc Kinh hiện đang đóng chiếc tàu sân bay thứ hai và dự kiến sẽ đưa vào sử dụng trong 2 năm tới. Bắc Kinh cũng phát triển tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay Đông Phong 21D (DF-21D) nhằm ngăn chặn tàu chiến của các quốc gia bên ngoài tiến vào Biển Đông trong trường hợp xảy ra xung đột. Trong thập kỷ qua, Bắc Kinh đã đưa vào hoạt động các loại tàu ngầm, tàu khu trục, tàu độ bộ và tàu tàu tra, đây là các loại tàu giúp “tăng cường đáng kể hoạt động của Bắc Kinh tại Biển Đông”. Thông qua những bước phát triển này, Bắc Kinh có thể có ý định phát triển năng lực chống tiếp cận tốt hơn tại Biển Đông.
Với quy mô và tốc độ nhỏ hơn, các quốc gia ven biển Đông Nam Á cũng đã thực hiện nâng cấp năng lực hải quân của mình. Philippines đã tự mình có kế hoạch hiện đại hóa hải quân của mình, một phần trong đó là việc tăng cường mối quan hệ an ninh với Mỹ. Các quốc gia Đông Nam Á ven biển khác cũng nâng cấp năng lực hải quân của mình. Từ năm 2011, Indonesia đã sở hữu tên lửa chống tàu siêu thanh tầm bắn 300 km, loại tên lửa này được coi là hệ thống “thay đổi cuộc chơi” và là bước tiến đáng kể về năng lực hải quân Indonesia. Nhằm bảo vệ vùng lãnh hải của mình, Indonesia đặt mục tiêu dài hạn triển khai 274 tàu vào năm 2024. Một hạm đội tàu đổ bộ đã được mua và Jakarta có kế hoạch triển khai 6 đến 12 chiếc tàu ngầm vào năm 2029. Năm 2009, Malaysia đã triển khai 2 chiếc tàu ngầm do Pháp sản xuất. Năm 2010, Kuala Lumpur đã cho hoạt động hai chiếc tàu khu trục nhỏ trang bị hệ thống chống tên lửa và chống tàu, được trang bị 2 chiếc trực thăng trên mỗi tàu, có kế hoạch mua 27 tàu tuần tra xa bờ. Năm 2011, Singapore đã sở hữu 5 chiếc tàu ngầm, 6 chiếc tàu hộ tống tàng hình được trang bị hệ thống chống tàu ngầm, chống tàu và tên lửa đất đối không.
Việc hiện đại hóa năng lực hải quân của các quốc gia ven biển tại Biển Đông, cùng với đó là việc gia tăng hiện diện hải quân của Mỹ trong khu vực thông qua tập trận chung và cơ chế tàu chiến viếng thăm khiến cho Biển Đông ngày càng chật chội hơn trên khía cạnh triển khai quân sự. Nó khiến cho công tác kiểm soát tình huống để duy trì môi trường an ninh và ổn định tại Biển Đông trở nên khó khăn hơn.
Vấn đề chính trị và xã hội
Liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, bất kỳ một động thái của quốc gia yêu sách nào đều luôn mang tính tượng trưng rất lớn, gây ra những phản ứng của các quốc gia tranh chấp khác, điều đó có thể làm leo thang thêm căng thẳng thông qua những hành động trả đũa liên tiếp lẫn nhau.
Do những tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông gia tăng trong 2 năm qua, ngày càng có nhiều những va chạm và xích mích giữa các quốc gia yêu sách, gây ra những bàn luận và tranh cãi mạnh mẽ giữa các chính phủ. Những cuộc đàm luận của các lãnh đạo và truyền thông có thể dẫn tới chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong dân chúng, từ đó sẽ tạo ra thêm những căng thẳng, cản trở các nhà lãnh đạo trong việc đạt được giải pháp giải quyết hòa bình cho những tranh chấp.
Những tác nhân dẫn đến thay đổi tạm thời
Thứ nhất, phản ứng từ cộng đồng quốc tế và các quốc gia khu vực mạnh mẽ đến mức lãnh đạo Trung Quốc có thể hiểu rằng cách tiếp cận quyết đoán (và hung hăng) trong tranh chấp Biển Đông có lẽ không có lợi cho lợi ích của Trung Quốc. Trong quá khứ, lãnh đạo Trung Quốc thường đi theo di huấn của Đặng Tiểu Bình “giấu mình chờ thời” và chiến lược “tấn công hấp dẫn” của Trung Quốc giúp quốc gia này đạt được tầm ảnh hưởng quan trọng, cả về khía cạnh sức mạnh cứng và mềm tại Đông Nam Á. Khi Trung Quốc trở nên quyết đoán hơn trong yêu sách của mình tại Biển Đông, thì các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là những nước có yêu sách tại Biển Đông có lẽ sẽ nhìn nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc là mối đe dọa tiềm ẩn đối với an ninh khu vực. Một cách tự nhiên, họ sẽ hợp tác cùng nhau trong các cơ chế đa phương khu vực, xích lại gần hơn với Mỹ như một phương thức ngăn ngừa đối trọng lại với hành vi đe dọa của Trung Quốc. Ngoài ra, sự hung hăng của Bắc Kinh tại Biển Đông sẽ tạo điều kiện cho Mỹ can dự vào khu vực nhanh hơn và sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Biển Đông cũng sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, sau thời kỳ mở rộng ảnh hưởng tại Biển Đông, giờ đây Trung Quốc trong giai đoạn củng cố sự hiện diện trong khu vực. Về bản chất tự nhiên thì sự củng cố ít mang tính khiêu khích hơn là sự mở rộng.
Thứ ba, căng thẳng với Nhật Bản trên Đảo Senkaku (Điếu Ngư) buộc Trung Quốc phải hành xử ôn hòa hơn với các quốc gia Đông Nam Á tại Biển Đông. Căng thẳng này đột ngột gia tăng vào tháng 9/2012 khi Nhật Bản quyết định quốc hữu hóa đảo Senkaku, hòn đảo tranh chấp với Trung Quốc. Điều này đã dẫn đến hàng loạt tranh cãi và xung đột giữa chính phủ và người dân 2 nước. Tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cực đoan và hành vi hiếu chiến của hai bên đã khiến cho tranh căng thẳng trong tranh chấp leo thang hơn.
Các giải pháp giải quyết tình hình tranh chấp ở Biển Đông
Về phương diện khoa học luật quốc tế, các quốc gia không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, mà phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là một nghĩa vụ pháp lý của tất cả các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế. Căn cứ vào bản chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp, các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có thể được chia làm hai nhóm cơ bản:
Thứ nhất, các biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính ngoại giao, gồm các biện pháp đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, giải quyết trước các tổ chức quốc tế bằng các hiệp định khu vực, với đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp bằng đối thoại, thương lượng thông qua các diễn đàn, Hội nghị quốc tế do các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức. Có thể kể đến là các tổ chức quốc tế liên chính phủ như ASEAN, Liên minh châu Âu, Liên minh châu Phi,… Kết quả giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp này thường là các nghị quyết, khuyến cáo của các tổ chức quốc tế hoặc các cam kết và các điều ước quốc tế được các bên tranh chấp ký.
Thứ hai, các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán. Các biện pháp này có đặc điểm là giải quyết tranh chấp theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, thông qua hoạt động xét xử với kết quả giải quyết tranh chấp là các phán quyết của Tòa án quốc tế hoặc Trọng tài quốc tế có giá trị chung thẩm, bắt buộc các bên liên quan phải tuân thủ và thực hiện.
Ngoài hai nhóm biện pháp trên, một biện pháp mới không được đề cập trong Hiến chương nhưng được áp dụng rất nhiều trong thực tiễn là môi giới giải quyết tranh chấp. Nghĩa là, các cá nhân có uy tín lớn trong quan hệ quốc tế như Nguyên thủ quốc gia, Tổng thư ký hoặc nguyên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc được các bên tranh chấp đề nghị đứng ra thuyết phục để các bên gặp gỡ, tiếp xúc nhằm giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước 1982 đã dành ra 9 điều và 4 phụ lục để quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ Công ước 1982, Điều 287 quy định bốn cơ quan giải quyết tranh chấp: (1) Tòa quốc tế về Luật biển được thành lập theo Phụ lục VI; (2) Tòa án Công lý quốc tế; (3) Tòa Trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII, để giải quyết một hay nhiều tranh chấp đã được quy định rõ trong đó; (4) Tòa trọng tài quốc tế được thành lập theo Phụ lục VII. Một lưu ý rằng, nếu các bên trong tranh chấp không chọn trước hay không thỏa thuận được cơ quan giải quyết tranh chấp nào trong bốn cơ quan trên, thì phải dùng đến Tòa trọng tài quốc tế. Nghĩa là, nếu các bên không có tuyên bố trước hoặc có thỏa thuận khác, biện pháp giải quyết bằng Tòa trọng tài quốc tế mặc nhiên được áp dụng.
Đối với căng thẳng ở Biển Đông hiện nay, việc tìm kiếm một giải pháp hữu hiệu và duy nhất là khó có khả thi. Tuy nhiên, các nước liên quan tranh chấp chủ quyền, cũng như các nước có lợi ích ở Biển Đông có thể triển khai một số biện pháp nhằm hạn chế gia tăng căng thẳng, tăng cường hợp tác, trao đổi để từng bước xây dựng nền móng giải quyết triệt để tranh chấp ở Biển Đông. Cụ thể: (1) Để có giải pháp chung cuộc đối với tranh chấp trên Biển Đông thì các nước liên quan cần sẽ theo đuổi con đường đàm phán, trao đổi với các bên có tranh chấp để đạt được thỏa thuận hợp lý. (2) Trong khi chờ đợi có được giải pháp lâu dài đó, các nước liên quan cũng cần sẵn sàng chấp nhận những giải pháp tạm thời, bao gồm hợp tác trên những vấn đề không nhạy cảm như tìm kiếm, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo và bảo vệ môi trường và hợp tác cùng khai thác. Riêng trên vấn đề hợp tác cùng khai thác (dầu khí) mà Bắc Kinh lâu nay vẫn vận động các nước thực hiện theo nguyên tắc “gạt tranh chấp, cùng hợp tác” trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam là không thể chấp nhận được. (3) Các bên liên quan cũng cần phải kiên trì, có thiện chí và xây dựng lòng tin chính trị để cùng tiến tới đàm phán giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên, các bên cần phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của nhau cũng như kiểm soát tình cảm dân tộc cực đoan, kích động hận thù, bài ngoại của người dân trong nước vốn gây cản trở cho quá trình đàm phán. (4) Các nước cần tuyệt đối tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS và Hiến chương LHQ và các thỏa thuận, tuyên bố chính trị song phương, đa phương đã ký kết trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Quan điểm của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông
Chủ trương nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông là bằng biện pháp hòa bình, trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Theo đó, đối với các vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam và một quốc gia khác thì giải quyết song phương. Với các vấn đề liên quan đến nhiều nước, nhiều bên, liên quan đến tự do, an toàn hàng hải thì cần sự bàn bạc của các bên liên quan. Trong trường hợp các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán thì cần phải thực hiện bằng các phương thức khác, như: trung gian, hòa giải hoặc các cơ chế tài phán quốc tế. Trong khi chờ một giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề Biển Đông, các bên liên quan cần nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không làm phức tạp hóa tình hình, không có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Về bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông, Việt Nam hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực cũng như đóng góp mang tính xây dựng của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề này; ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phù hợp với luật pháp quốc tế, triển khai thực hiện đầy đủ DOC và khuyến khích các bên xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC).
Về đề nghị “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc, Việt Nam không phản đối. Tuy nhiên, Việt Nam không chấp nhận yêu sách “đường 9 đoạn” phi lý của Trung Quốc để tạo thành vùng chồng lấn với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Việt Nam khẳng định, sẽ tiếp tục khai thác và bảo vệ các lợi ích kinh tế trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, trong đó có những hoạt động của các công ty dầu khí; đồng thời, hoan nghênh và cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty nước ngoài có thực lực và kinh nghiệm tiến hành hợp tác thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam.