Friday, November 15, 2024
Trang chủĐiểm tinTính toán chiến lược của các bên và triển vọng giải quyết...

Tính toán chiến lược của các bên và triển vọng giải quyết tranh chấp ở Biển Đông

Mỹ luôn khẳng định rằng Mỹ cũng như các quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do thông thương hàng hải, quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông; nhấn mạnh Mỹ ủng hộ tiến trình đàm phán hòa bình giữa tất cả các bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, phản đối bất kỳ sự sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên nào…

Tính toán chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông

Mục tiêu chính của Trung Quốc ở Biển Đông là: (1) Buộc Mỹ phải ra khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương bằng cách gây hao mòn chiến lược và chính trị hoặc đẩy Mỹ vào tình thế bị động chiến lược bằng chính sách bên miệng hố chiến tranh hiếu chiến trên tất cả các vùng biển Tây Thái Bình Dương; (2) Tăng cường sức mạnh hải quân Trung Quốc để thu hẹp khoảng cách với ưu thế hải quân vượt trội của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương; (3) Bảo vệ và phát triển các trung tâm kinh tế nằm dọc bờ biển như Quảng Châu, Thượng Hải và vùng duyên hải Trung Quốc; (4) Bảo vệ chống cướp biển và khủng bố trên biển, kiểm soát và mở rộng phạm vi kiểm soát đối với các tuyến hàng hải huyết mạch. Lợi ích này ngày càng trở nên quan trọng vì Trung Quốc có đội tàu thương mại lớn nhất thế giới, đang sử dụng các tuyến hàng hải quan trọng trong khu vực để kết nối Trung Quốc với thế giới. Trung Quốc đang ngày càng phụ thuộc vào nguồn dầu nhập khẩu để vận hành nền kinh tế, vì vậy Trung Quốc đã mua nhiều công ty và tập đoàn dầu khí ở nước ngoài và lượng dầu này chủ yếu được chở về nước trên các tuyến hàng hải và qua các eo biển, nhất là tuyến tiếp dầu từ Trung Đông và tuyến vận tải qua eo biển Malacca. Trong những năm gần đây, hải quân viễn dương của Trung Quốc tăng cường thực hiện bảo hộ hàng hải và tập trận nhằm phục vụ mục đích này, thực chất là một bộ phận trong chiến lược “phòng ngự biển xa”. (5) Thực thi hiệu quả quyền chủ quyền của Trung Quốc, bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mở rộng của Trung Quốc khỏi bị các nước láng giềng đánh cắp tài nguyên và đẩy mạnh khai thác tài nguyên biển vì vùng thềm lục địa mở rộng, đặc quyền kinh tế và các đảo mà Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền được cho là có chứa nhiều tài nguyên dầu và khí. Các khoáng chất quan trọng cho phát triển kinh tế Trung Quốc và cho một số ngành kỹ thuật then chốt cũng có thể khai thác ngoài biển. Hàm lượng kinh tế biển trong tổng thể nền kinh tế Trung Quốc đang ngày càng gia tăng; (6) Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực như cứu trợ, cứu nạn, tham gia ngày càng nhiều vào xử lý các vấn đề toàn cầu hay xuyên quốc gia như chống khủng bố, cướp biển và cướp có vũ trang trên biển,… qua đó nâng cao vai trò, vị thế và ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc. Về ảnh hưởng, Trung Quốc muốn cạnh tranh với ba đối thủ hàng hải tiềm tàng là Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, nhất là Ấn Độ vì đa số các tuyến hàng hải quan trọng của Trung Quốc đều đi qua Ấn Độ Dương, trong khi Ấn Độ có một lực lượng hải quân rất mạnh, lại đang gia tăng hợp tác với Nhật và Mỹ. Trung Quốc lo ngại Ấn Độ muốn kiểm soát Ấn Độ Dương; (7) Bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền ở biển Hoa Đông và biển Đông và nâng cao khả năng thu hồi Đài loan về lâu dài, phòng ngừa sự can dự của Mỹ vào một cuộc xung đột có thể xảy ra với Đài Loan trong tương lai, tiến tới đẩy dần Mỹ ra xa. Trên thực tế, đây là chiến lược phòng ngự chủ động biển gần.

Để thực hiện được các mục tiêu trên, Trung Quốc không chỉ tiến hành các hoạt động xâm chiếm, cải tạo phi pháp các đảo, đá ở Biển Đông, mà còn tăng cường sức mạnh quân sự, sẵn sàng triển khai các biện pháp cần thiết (bao gồm cả biện pháp quân sự) để bảo vệ cái gọi là “chủ quyền” ở Biển Đông, cụ thể: (1) Trung Quốc triển khai chính sách đánh phủ đầu/chống lại/cản trở việc quốc tế hóa những tranh chấp trên Biển Đông bằng mọi giá; từng bước chia rẽ đoàn kết ASEAN nhằm ngăn chặn khu vực hóa những tranh chấp này; (2) Duy trì các tranh chấp trên Biển Đông luôn ở mức độ áp lực vừa phải để Mỹ không thể trực tiếp can thiệp quân sự, nhưng vẫn đủ để gây sức ép chiến lược; (3) Tăng cường sức mạnh quân sự, khả năng chấp pháp trên biển đối với các tàu hải quân, bao gồm cả tàu sân bay, các tàu dân sự, tàu cá, tàu thăm dò khai thác tài nguyên biển và các lực lượng chấp pháp khác trên biển. Để phát triển năng lực hải quân, Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng lực lượng tàu và kết cấu lực lượng chứng tỏ Trung Quốc đang chuyển dần từ phòng ngự sang chống tiếp cận và cả tấn công, từ biển gần sang biển xa. Trung Quốc đang sở hữu gần 100 tàu chiến mặt nước loại lớn các khu trục hạm Lạc Dương II & III, tàu hộ tống Giang Khải I & II; có khoảng 70 tàu ngầm, hơn 50 tàu đổ bổ đường biển các loại, cùng với khoảng 100 tàu nhỏ tấn công có trang bị tên lửa. Từ tháng 9 năm 2012, Trung Quốc đã đưa tầu sân bay Liêu Ninh vào hoạt động. Trung Quốc hiện đang chạy thử nghiệm tàu sân bay thứ hai, lớn hơn nhiều so với tàu Liêu Ninh. Trong số 70 tàu ngầm của hải quân Trung Quốc, có 3 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo thuộc lớp Thanh (Type 094), 2 tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Thương (Type 093). Trong số 12 tàu ngầm lớp Kilo Trung Quốc mua của Nga trong những năm 1990 và 2000, có 8 tàu được trang bị các tên lửa hành trình đối hải SS-N-27 ASCM. Ngoài ra, còn có 13 tàu ngầm lớp Tống (Type 039) và 8 tàu lớp Nguyên (Type 039 A). Trung Quốc dự định sẽ đóng thêm 20 tàu lớp Nguyên mới, 5 chiếc thuộc lớp Thanh, 4 chiếc thuộc lớp Thương. Mới đây nhất, Trung Quốc đã bắt đầu đưa vào sử dụng tàu ngầm hạt nhân lớp Tần (JIN class) có độ ồn rất thấp. Tàu sân bay và tàu ngầm tấn công hạt nhân chiến lược là các vũ khí tấn công được thiết kế để hoạt động dài ngày xa bờ. Bên cạnh việc phát triển lực lượng tàu mặt nước, tàu ngầm, tàu sân bay, không quân của hải quân nhằm nâng cao năng lực tác chiến xa bờ, Trung Quốc còn phát triển hệ thống tên lửa đạn đạo chống tiếp cận nhằm đẩy lực lượng của các nước đối nghịch ra xa bờ biển Trung Quốc, điển hình là tên lửa Đông Phong 21D (tầm bắn 1.500 dặm). (4) Để tăng cường năng lực phối kết hợp giữa các lực lượng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trên biển, Trung Quốc đang triển khai chiến lược kết hợp chiều ngang giữa các lực lượng dân sự, chấp pháp, bán quân sự và quân sự trong chiến lược mà phương Tây gọi là “cải bắp”, theo đó lực lượng ngư dân là tiền tuyến, hải giám và ngư chính là trung tuyến và hải quân là ngoại tuyến cùng hỗ trợ bảo vệ lợi ích biển của Trung quốc ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đẩy mạnh kết hợp chiều dọc giữa các đơn vị trong cùng một lực lượng như diễn tập kết hợp giữa 3 hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải tại Biển Đông. (5) Về xây dựng căn cứ bên trong và bên ngoài, Trung Quốc đầu tư xây dựng Tam Á, có triển vọng trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Trung Quốc, làm bến đỗ cho nhiều tầu ngầm tấn công hạt nhân và ít nhất hai tàu sân bay trong tương lai. Ngoài ra, Trung Quốc đã đưa vào sử dụng căn cứ hải quân đầu tiên ở Djibouti (châu Phi) nhằm tăng cường khả năng kiểm soát tình hình, phá vỡ vòng vây của Mỹ và các nước đồng minh tại Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. (6) Về hợp tác quốc tế, Trung Quốc chưa tham gia nhiều hoạt động hợp tác quân sự quốc tế, nhất là các hoạt động diễn tập quân sự với các nước lớn khác do năng lực còn hạn chế, chỉ có thể hoạt động gần bờ và lo ngại các điểm yếu của mình bị phát hiện. Trung Quốc chủ yếu tham gia tập trận với Nga. (7) Về triển khai chiến lược kinh tế hải dương, ngay từ tháng 05/2003, Quốc vụ viện Trung Quốc đã đưa ra bản “Cương yếu Phát triển Kinh tế Hải dương toàn quốc”, lần đầu tiên đặt mục tiêu cho việc “từng bước xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc hải dương”. Trong đó có các mục tiêu như “cường quốc kinh tế biển”, “khoa học kỹ thuật biển”, và “tổng hợp sức mạnh biển”. Còn trong bản “Kế hoạch phát triển kinh tế hải dương Trung Quốc từ năm 2011 đến 2015”, do Cục Hải dương Quốc gia công bố tháng 01/2013, Trung Quốc đã xác lập mục tiêu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hải dương hàng năm ở mức 10%, và từ năm 2015 tới 2030 lên 18% GDP, từ năm 2031 tới 2045 lên 25% GDP. (8) Về luật pháp hải dương, nhằm phục vụ cho tính toán chiến lược ở Biển Đông, Trung Quốc đã có những bước điều chỉnh công tác quản lý và chấp pháp hải dương ở tầm vĩ mô để thống nhất chỉ đạo đối với 17 cơ quan đầu mối có trách nhiệm thực thi việc chấp pháp biển của Trung Quốc. Song hành với hoàn thiện cơ cấu, Trung Quốc cũng ban hành nhiều quy định cụ thể đối với nghề cá, vận tải biển, phòng vệ biển.

Tính toán chiến lược của Mỹ ở Biển Đông

Mỹ luôn khẳng định rằng Mỹ cũng như các quốc gia khác có lợi ích quốc gia trong việc đảm bảo tự do thông thương hàng hải, quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của châu Á và sự tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông; nhấn mạnh Mỹ ủng hộ tiến trình đàm phán hòa bình giữa tất cả các bên có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, phản đối bất kỳ sự sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực bởi bất kỳ bên nào; cam kết không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông và khẳng định sẵn sàng hỗ trợ các sáng kiến và biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với Tuyên bố năm 2002 giữa Trung Quốc và ASEAN về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông.

Trên thực tế, tính toán chiến lược của Mỹ ở Biển Đông là nhằm: (1) Thông qua các hoạt động tuần tra hàng hải, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông. (2) Tăng cường phản đối việc Trung Quốc quyết đoán khẳng định “chủ quyền” của Bắc Kinh trái với luật pháp quốc tế, ngăn chặn Trung Quốc độc chiếm Biển Đông, nỗ lực duy trì hiện trạng sao cho các đảo ở Biển Đông được nhiều nước chiếm lĩnh; (3) Mỹ chủ trương giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán đa phương, tích cực ủng hộ chủ trương ASEAN hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa vấn đề Biển Đông của Việt Nam, Philippines và các nước tuyên bố chủ quyền khác. Mỹ không chấp nhận Trung Quốc công bố chủ quyền phi lý trên Biển Đông, coi những hành động ngang ngược của Trung Quốc là nhân tố gây mất ổn định trong khu vực; (4) Mỹ không thừa nhận cơ sở pháp lý của các đòi hỏi chủ quyền đối với Biển Đông của bất kỳ nước nào, kể cả Philippines (đồng minh truyền thống), nhằm tránh cho Mỹ khỏi dính líu vào cuộc chiến pháp lý phức tạp và chắc chắn sẽ kéo dài, làm hao tổn các nguồn lực của Mỹ. Tuy nhiên, lý do được xem là quan trọng hơn, đó là việc thừa nhận cơ sở pháp lý của các yêu sách chủ quyền của bất kỳ bên nào cũng sẽ bất lợi cho Mỹ. Nếu thừa nhận yêu sách chủ quyền của một bên, tức là Mỹ đã giúp cho bên đó có lợi thế hơn. Về phương diện chiến lược, nếu một nước nào đó làm chủ Biển Đông, ưu thế chiến lược ở châu Á – Thái Bình Dương sẽ nghiêng về họ, tuyến phòng thủ của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương có nguy cơ bị phá vỡ. Còn nếu Mỹ thừa nhận cơ sở pháp lý của các yêu sách chủ quyền của các nước Đông Nam Á có liên quan, Mỹ sẽ đối đầu trực tiếp với Trung Quốc. Trong bối cảnh còn phải đối phó với các vấn đề trong và ngoài nước, Mỹ không muốn tiếp tục bị lôi kéo vào một cuộc xung đột nữa, nhất là đối với Trung Quốc. (5) Biển Đông là “quân cờ” quan trọng của Mỹ trong mục tiêu kiềm chế tham vọng của những nước muốn độc chiếm khu vực này, bởi nếu để xảy ra tình trạng đó, lợi ích chiến lược của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương sẽ bị tổn hại nghiêm trọng. Ngoài ra, Mỹ muốn qua Biển Đông để thể hiện vai trò của Mỹ đối với thế giới thời kỳ “hậu Irắc”. (6) Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ sau khủng hoảng tài chính khiến cho nhiều nước cho rằng vai trò của Mỹ đối với thế giới đang yếu đi. Để lấy lại hình ảnh và cũng là để trấn an dư luận quốc tế về sức mạnh của mình, Mỹ rất cần một địa điểm để làm mới vai trò của mình và Mỹ đã lựa chọn Biển Đông.      

Để thực hiện được tính toán trên, Mỹ đã triển khai tổng hợp nhiều biện pháp: (1) Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông. Từ năm 2009 đến năm 2018, Mỹ đã nhiều lần tổ chức diễn tập quân sự song phương cũng như đa phương quy mô lớn cạnh Biển Đông và khu vực vành đai Thái Bình Dương, chẳng hạn như cuộc diễn tập hợp tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trên biển với nhiều nước: Brunei, Idonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan. Bên cạnh đó tiến hành tập trận quân sự hỗn hợp vai kề vai với Philippines, đồng thời đã tổ chức cuộc diễn tập quân sự Vành đai Thái Bình Dương ở phạm vi rộng hơn với sự tham gia của 14 nước: Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Hà lan, Peru… (2) Mỹ tăng cường hoạt động đối ngoại, phản ứng mạnh mẽ hành động sai trái của Trung Quốc, bảo vệ đồng minh. Mỹ đã có cam kết rõ ràng với Philippines trong việc ủng hộ Philppines nâng cao năng lực phòng vệ chủ quyền biển đảo, thông qua các biện pháp cụ thể như cung cấp các trang thiết bị, vật tư thỏa đáng để góp phần nâng cao lực lượng quân sự của Philippines, nhất là đối với lực lượng hải quân. Ngoài ra, Mỹ sẽ tăng cường hợp tác trên biển với Việt Nam và nghiêm chỉnh tuân thủ cam kết bảo vệ hòa bình, phồn vinh và an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời ám chỉ rất rõ sự quan tâm của Mỹ đối với căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh. (3) Mỹ cũng tăng cường quan hệ kinh tế thương mại và hợp tác khai thác dầu khí trên biển với các nước tranh chấp liên quan. Mỹ cũng tăng cường hợp tác với các nước ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ để can thiệp vào tình hình Biển Đông. (4) Mỹ củng cố quan hệ với đồng minh và đối tác để bảo vệ lợi ích của mình, Mỹ củng cố quan hệ với đồng minh như Nhật Bản và Philippines để triển khai lực lượng quân sự, đảm bảo an ninh khu vực và vị thế tại Biển Đông. Mỹ đã đạt được một số thỏa thuận về đảm bảo hoạt động của quân đội Mỹ ở khu vực như tiếp tục sử dụng hai căn cứ Clark và Subic ở Philippines; quyền sử dụng các công trình quân sự của Thái Lan; thực hiện giai đoạn một Hiệp định xây dựng cảng nước sâu cỡ lớn cho quân đội Mỹ tại Singapore. Mỹ cũng khuyến khích các nước châu Á phát triển quan hệ an ninh đa phương. Để giải quyết với vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa, Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh quân sự với Philippines và ủng hộ nỗ lực xây lực cơ chế đa phương của ASEAN. (5) Mỹ ủng hộ và khuyến khích ASEAN hợp tác để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, duy trì ổn định trong khu vực. Mỹ đã phát triển một cơ chế hợp tác chính thức giúp hài hòa cả hai bên dựa trên luật quốc tế. Mỹ cũng dự định bắt đầu tiến trình tiến tới gia nhập Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác của ASEAN, can dự vào tiến trình Thượng đỉnh Đông Á. Trong những năm qua, Mỹ cũng luôn ủng hộ những nỗ lực giữa các bên nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng con đường hòa bình theo tinh thần của UNCLOS 1982 và Tuyên bố ứng xử Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN (DOC) 2002. Đặc biệt là Mỹ đang tích cực ủng hộ đàm phán ASEAN – Trung Quốc về việc đi tới ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), nhấn mạnh rằng Bộ quy tắc cần đưa ra “khuôn khổ dựa trên các quy định có tính ràng buộc để ngăn chặn và quản lý tranh chấp”. Đồng thời, thông qua các cơ chế khu vực như Diễn đàn an ninh khu vực ARF, Hiệp ước TAC, ADMM+,… Mỹ đã đóng góp tiếng nói đối với việc duy trì an ninh khu vực tại Biển Đông. Trên lĩnh vực quân sự, việc Mỹ triển khai các hợp tác an ninh – quốc phòng với các quốc gia ASEAN đã giúp tăng cường khả năng đối trọng với Trung Quốc của những nước này. Trong những năm gần đây, Mỹ đã cùng các nước ASEAN tiến hành hơn 30 cuộc tập trận, tức hơn 2/3 các cuộc tập trận ở châu Á. (6) Mỹ vừa tăng cường quan hệ với Trung Quốc vừa tìm cách kiềm chế Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Mỹ vừa tranh thủ những cơ chế đối thoại, hợp tác với Trung Quốc nhằm xây dựng một giải pháp đa phương, lại vừa thực hiện các hoạt động do thám, nghiên cứu tại Biển Đông nhằm thăm dò sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Mỹ quan ngại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, ngân sách quân sự ngày càng tăng, các hoạt động kinh tế và quân sự để khẳng định chủ quyền trong khi phủ nhận chủ quyền của các nước khác. Nhưng đồng thời Mỹ tăng cường quan hệ với Trung Quốc, hợp tác khai thác dầu khí để bảo vệ lợi ích kinh tế, chống hải tặc để bảo vệ an toàn hàng hải ở Biển Đông. Mỹ còn muốn tăng cường hợp tác hải quân giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm duy trì an ninh ở châu Á- Thái Bình Dương và Biển Đông.

Tính toán chiến lược của Nhật Bản ở Biển Đông

Biển Đông có vai trò quan trọng, mang tính sống còn đối với Nhật Bảntrên nhiều mặt như kinh tế, thương mại, ổn định về chính trị, an ninh và giao thông hàng hải. Quan điểm và mục tiêu xuyên suốt của Nhật Bản đối với vấn đề Biển Đông là duy trì hòa bình, đảm bảo an ninh và tự do hàng hải quốc tế, trên nguyên tắc mọi bất đồng tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển phải được giải quyết dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Mục tiêu quan trọng của Nhật Bản khi can dự vào vấn đề Biển Đông là tăng cường sự ảnh hưởng của nước này tại khu vực Biển Đông, tích cực can dự đối với cục diện an ninh khu vực, xây dựng hình ảnh nước lớn ở khu vực. Về chính thống, Nhật Bản luôn tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ và vùng biển; Nhật Bản chủ trương các tranh chấp phải giải quyết một cách hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp; Nhật Bản cũng lo việc đảm bảo một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương (trong đó bao gồm Biển Đông) tự do và mở, các nước tôn trọng tự do hàng hải và hàng không, thương mại biển không bị cản trở ảnh hưởng đến thịnh vượng của Nhật Bản; Nhật Bản giúp nâng cao năng lực tuần tra hàng hải cho một số nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Để triển khai mục tiêu chiến lược trên, Nhật Bản đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động như xây dựng và quân sự hóa các đảo trên biển ở quy mô lớn của Trung Quốc; ủng hộ phán quyết của Toà trọng tài; phản đối các hành động đơn phương của Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp trên biển… nhằm thúc đẩy quốc tế hóa tranh chấp ở Biển Đông tại các diễn đàn song phương và đa phương, từng bước ngăn chặn các hành động đơn phương không tuân theo luật pháp quốc tế của Trung Quốc. Không những vậy, Nhật Bản cũng hỗ trợ trang thiết bị như tàu tuần tra, máy bay tuần tra và hỗ trợ đào tạo, huấn luyện kỹ năng cho cán bộ chấp pháp biển cho một số nước ASEAN đã góp phần nâng cao năng lực chấp pháp biển của một số nước, hỗ trợ các nước đối phó với âm mưu, hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông và qua đó gia tăng áp lực quân sự đối với Trung Quốc. Nhật Bản là một quốc gia biển đã có những công nghệ vượt trội về khai thác và bảo vệ nguồn lợi từ biển nên việc hỗ trợ của Nhật Bản sẽ trong lĩnh vực này sẽ rất có ích cho phát triển kinh tế biển của một số nước liên quan, nhất là Việt Nam, trong việc khai thác, nuôi trồng, chế biển thuỷ, hải sản cũng như lập các khu vực bảo tồn biển… nhằm tránh cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản. Ngoài ra, Nhật Bản cũng tích cực củng cố mối quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ, coi quan hệ đồng minh Nhật – Mỹ là khuôn khổ cơ chế hợp pháp cho việc can dự vào Biển Đông. Chiến lược bảo đảm an ninh quốc gia của Nhật Bản chỉ rõ là những nước có mạng lưới thương mại toàn cầu phụ thuộc vào đường biển, Mỹ và Nhật Bản luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì trật tự trên biển dựa trên nền tảng luật pháp quốc tế, trong đó có quyền tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.

Tính toán chiến lược của Nga ở Biển Đông

Nga nhiều lần đưa ra các tuyên bố khẳng định chủ trương, chính sách trung lập, không đứng về bên nào trong tranh chấp ở Biển Đông, song nhấn mạnh cần giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, đồng thời tuyên bố ủng hộ ASEAN và Trung Quốc sớm đàm phán, ký kết thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông; cho rằng Nga quan tâm lợi ích trong việc đảm bảo tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông, nhấn mạnh việc xảy ra xung đột hoặc quân sự hóa trong khu vực sẽ gây nguy hiểm cho lợi ích của các công ty dầu khí của Nga hoạt động trong khu vực.

Trên thực tế, Nga đang lợi dụng tranh chấp Biển Đông để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp quân sự, bán các trang thiết bị, khí tài quân sự cho các nước trong khu vực Biển Đông; đồng thời thông qua các hoạt động hợp tác, giao lưu quân sự để kiềm chế các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông. Không những vậy, Nga cũng đang tìm cách cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Nga không muốn vì vấn đề Biển Đông để ảnh hưởng đến quan hệ với các nước liên quan. Gần đây, quan hệ Nga và Việt Nam đang ngày càng được cải thiện; hai nước cũng đã nâng cấp quan hệ lên hàng “đối tác chiến lược toàn diện” để thúc đẩy quan hệ song phương, trong đơ hợp tác về quân sự vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu.

Tính toán chiến lược của Ấn Độ ở Biển Đông

Tuy không liên quan trực tiếp và không tuyên bố chủ quyền đối với khu vực Biển Đông, song Biển Đông có vai trò và ảnh hưởng lớn đối với kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng của Ấn Độ. Ấn Độ đang ngày càng khẳng định vai trò lớn hơn khi công bố có lợi ích ở Biển Đông, phản đối các hành động thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông và khẳng định sự cần thiết phải giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc phòng và an ninh biển với các nước trong khu vực. Trong đó, Tuyên bố chung Ấn – Mỹ ký kết hồi tháng 9 năm 2014 lần đầu tiên đề cập đến vấn đề Biển Đông và nêu rõ Ấn Độ, Mỹ có lợi ích chung về an ninh biển, bao gồm tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật quốc tế. Ngoài ra, Ấn Độ tăng cường hiện diện ở Biển Đông tập trung vào các mục tiêu: (1) Đảm bảo hòa bình, ổn định trong khu vực, giữ cho các tuyến đường biển luôn rộng mở; (2) Đảm bảo không có cường quốc nào khống chế toàn bộ khu vực này. Thông qua chính sách này, Ấn Độ đã theo đuổi các mục tiêu này bằng cách tìm kiếm tăng cường can dự với các quốc gia ASEAN. (3) Tăng cường hiện diện hải quân ở Biển Đông để đối trọng sự bành trướng của Trung Quốc ra Ấn Độ Dương. Hiện Trung Quốc đang tích cực sử dụng các biện pháp quân sự, ngoại giao, kinh tế để can thiệp sâu hơn vào khu vực Ấn Độ Dương thông qua chiến lược “chuỗi ngọc trai” nhằm kiềm chế Ấn Độ. Vì vậy, Ấn Độ phải tăng cường hiện diện ở Biển Đông thông qua các hoạt động giao lưu, tập trận hải quân; theo sát các diễn biến ở Biển Đông để đảm bảo rằng các hành động quyết đoán, cứng rắn và phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông sẽ không diễn ra ở Ấn Độ Dương, nhất là khi Trung Quốc đưa việc bảo vệ các tuyến đường giao thông hàng hải thành lợi ích quốc gia. (4) Thắt chặt quan hệ với các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Để thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ Ấn Độ đã có sự điều chỉnh chính sách liên quan vấn đề Biển Đông theo hướng linh hoạt hơn. Lãnh đạo cấp cao của Ấn Độ bày tỏ quan điểm và lập trường ủng hộ tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), nghiêm túc thực thi Tuyên bố về Ứng xử ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy đàm phán ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN. Ấn Độ cũng tăng cường hợp tác hàng hải với các nước có lợi ích ở Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Australia như Tuyên bố chung Ấn Độ – Nhật Bản (từ năm 2010 – 2014) đều nhấn mạnh hợp tác an ninh biển song phương, Ấn – Mỹ – Nhật (10/2015) tổ chức tập trận chung ở Ấn Độ Dương, Ấn – Australia (9/2015) tập trận chung ở Ấn Độ Dương…; ký kết nhiều hợp đồng quân sự với các nước ASEAN. Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ và Việt Nam đã ký bản ghi nhớ về tuyên bố chung hợp tác quốc phòng giai đoạn 2015 – 2020, nhấn mạnh việc hợp tác về cảnh sát biển; Ấn Độ cũng đã cho Việt Nam vay tín dụng ưu đãi 100 triệu USD để mua các tàu tuần tra của Ấn Độ nhằm nâng cao năng lực bảo vệ an ninh hàng hải. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang tích cực tăng cường hiện diện quân sự trên thực địa, dần khẳng định vị thế một cường quốc trên thế giới. Ấn Độ đã điều nhiều tàu chiến, trong đó có một tàu khu trục tàng hình và một tàu hộ tống tham gia tập trận hải quân với Singapore, thăm một số cảng tại Jakarta của Indonesia, Freemantle của Australia, Kuantan của Malaysia, Sattahip của Thái Lan và Sihanoukville của Campuchia.

Triển vọng về giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông

Về triển vọng giải quyết xung đột trên Biển Đông, giới học giả khu vực và quốc tế cho rằng có ba nhân tố thúc đẩy và phụ thuộc lẫn nhau để tiến tới một giải pháp công bằng và thỏa mãn được kỳ vọng các bên như sau: (1) Trung Quốc phải có thái độ kiềm chế trong các vấn đề gây xung đột ở Biển Đông; (2) ASEAN cần thể hiện tinh thần đoàn kết để tăng cường sức mạnh thương lượng tập thể của khối trước Trung Quốc và khả năng răn đe ở chừng mực nào đó; (3) Cam kết mạnh mẽ của Mỹ để đảm bảo chính sách miệng hố chiến tranh hiếu chiến của Trung Quốc bị kiềm chế trong xung đột Biển Đông.

Tuy nhiên, xuất phát từ tính toán chiến lược của Trung Quốc cho thấy khó có thể mong đợi Bắc Kinh sẽ kiềm chế  trong xung đột Biển Đông bởi cách hành xử đã được thể hiện và những tuyên bố cứng rắn của nước này. Đối với sự đoàn kết của ASEAN, huyền thoại này sẽ bị phá vỡ hoàn toàn như đã phân tích ở trên. Trên thực tế, có khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc phân hóa nội bộ ASEAN. Trong khi đó, ngoại trừ Philippines, Mỹ không bị ràng buộc bởi bất kỳ mối quan hệ đồng minh an ninh nào với các nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông. Cam kết duy nhất của nước này đối với xung đột Biển Đông là “bảo vệ các vùng chung toàn cầu” và “tự do hàng hải” và nhờ đó duy trì vị trí thống trị trên biển Tây Thái Bình Dương.

Trong tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc với tư cách là một cường quốc khu vực, đã sử dụng tất cả các công cụ cưỡng ép để đạt được mục tiêu chiến lược đó là kiểm soát hoàn toàn quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa và thực thể đất liền nằm rải rác trên biển. Ngoài ra, Trung Quốc tuyên bố rằng nước này có đầy đủ chủ quyền đối với vùng biển xung quanh các quần đảo tranh chấp này. Chiến lược “cơ bắp” của Trung Quốc đang vượt ra ngoài giới hạn với ASEAN để ngầm thách thức Hải quân Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga và các nước thăm dò dầu khí quốc tế. Vì vậy, triển vọng giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông tiếp tục rơi vào thế bế tắc.

RELATED ARTICLES

Tin mới