Friday, November 15, 2024
Trang chủBiển nóngVai trò của Lực lượng Cảnh sát biển ở Biển Đông

Vai trò của Lực lượng Cảnh sát biển ở Biển Đông

Biển Đông có vai trò địa chiến lược quan trọng đối với các quốc gia ven biển cũng như toàn khu vực. Hiện nay, để duy trì việc quản lý và an ninh, an toàn trên biển cũng như bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia ven Biển Đông đều triển khai các lực lượng chính quy như hải quân, cảnh sát biển tuần tra trên biển.

Tàu cảnh sát biển Việt Nam

Tuy nhiên, việc xuất hiện các tàu hải quân tại khu vực tranh chấp ở Biển Đông có thể dễ gây hiểu lầm đối với các quốc gia khác, là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột giữa các quốc gia. Do các tàu hải quân thường lớn và trang bị vũ khí hiện đại. Vào tháng 6/2018, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cho rằng “một trong những cách để duy trì hòa bình ổn định ở Biển Đông là tuần tra vùng biển này bằng các tàu thực thi pháp luật – tàu cảnh sát biển thay vì tàu hải quân, các tàu cảnh sát biển nên được trang bị đủ để đối phó với cướp biển chứ không phải để tham chiến. Có quá nhiều tàu hải quân trong khu vực sẽ chỉ tạo nên căng thẳng”.

Một số người cho rằng, Bộ quy tắc tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) được ASEAN và Trung Quốc thông qua vào năm 2016, đã không có các điều khoản áp dụng đối với các tàu cảnh sát biển này. Vì vậy, khả năng cao là các cuộc đụng độ trong tương lai giữa các tàu này chỉ là vấn đề sớm hay muộn và có thể dẫn đến leo thang căng thẳng quân sự giữa các quốc gia. Tuy nhiên, các nhà phân tích an ninh hàng hải phản đối những ý kiến như vậy và nhấn mạnh rằng các Quy tắc Quốc tế về phòng ngừa và đâm va trên biển năm 1972 (COLREGS) chi phối các tàu này và tất cả các quốc gia có biển đã ký vào công ước. Ngoài ra, trong phần đệ trình của Philippines lên Tòa Trọng tài về vụ kiện Biển Đông năm 2016 đã lên án các cuộc diễn tập nguy hiểm của lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc vi phạm các điều khoản trong Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Vì vậy, ngay cả khi không được CUES đề cập, các tàu cảnh sát biển vẫn được luật quốc tế quản lý và ngăn chặn các hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến va chạm.

Tuy nhiên, mối nguy cơ dẫn đến căng thẳng trên biển vẫn còn nếu các tàu cảnh sát biển có các hoạt động dẫn đến va chạm nguy hiểm với các tàu cá, tàu cảnh sát biển của các quốc gia khác. Nhưng điều quan trọng là không phải tất cả các tàu cảnh sát biển trong khu vực đều thực hiện các hoạt động mạo hiểm trên biển như Trung Quốc. Gần đây, ngày 27/9, các ngư dân Philippines đã tố cáo các tàu hải cảnh của Trung Quốc đã quấy rối các tàu cá của họ gần khu vực bãi cạn Scarborough, khu vực cách đảo Luzon của Philippines khoảng 200 km. Trước đó, ngày 6/9, lực lượng tuần duyên Philippines cũng tố cáo 03 tàu hải cảnh Trung Quốc đã xua đuổi 03 tàu cá Philippines gần bãi cạn Scarborough. Ngoài ra, các tàu Hải cảnh của Trung Quốc cũng liên tục thực hiện việc xua đuổi quấy rối đối với các tàu cá của các nước khác trong khu vực, như xua đuổi các tàu cá Việt Nam tại khu vực quần đảo Hoàng Sa nơi Việt Nam tuyên bố có chủ quyền. Những hành động này của Trung Quốc làm xói mòn lòng tin và gia tăng căng thẳng giữa các quốc gia láng giềng quanh Biển Đông.

Về vấn đề liệu có hay không khả năng các nước xung quanh khu vực chạy đua vũ trang để trang bị cho lực lượng cảnh sát biển hay không? Các nhà phân tích cho rằng các tàu này thường không lớn hoặc không được trang bị vũ khí để có thể gây nguy hiểm khi thực hiện tuần tra trên Biển Đông. Cụ thể, 10 tàu mà Philippine Coast Guard nhận được từ Nhật Bản gần đây chỉ dài 44 mét. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam chỉ nhận được tàu lớn đầu tiên vào tháng 1/2018, một trong những chiếc USCG Hamilton “đã nghỉ hưu” gần đây. Trong trường hợp của Malaysia, mặc dù Cơ quan thực thi hàng hải Malaysia nhận được một số tàu từ Hải quân Hoàng gia Malaysia khi bắt đầu đi vào hoạt động, nhưng tàu tuần tra trên biển đầu tiên của họ chỉ được Nhật Bản hỗ trợ vào năm 2016.

Chỉ có hai quốc gia ở Đông Á – Trung Quốc và Nhật Bản – với đội tàu cảnh sát biển có thể được coi là mạnh hơn các nước trong khu vực. Tuy nhiên, ngay cả cuộc đối đầu giữa hai nước xung quanh quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư chưa bao giờ đủ để thành leo thang quân sự. Trong thực tế, điều này đưa đến một ví dụ hữu ích về việc lực lượng cảnh sát biển có thể giúp tránh sự leo thang một cuộc xung đột lãnh thổ. Kể từ khi các tàu của chính phủ Trung Quốc bắt đầu đi vào các vùng nước tranh chấp ở Biển Đông trong năm 2009, Nhật Bản đã phụ thuộc vào các tàu cảnh sát biển của mình để đáp trả. Mặc dù các tàu Trung Quốc, các tàu của hải cảnh và các ngư dân của họ đã liên tục xâm lấn vào khu vực tranh chấp trong những năm qua, Nhật Bản đã cố gắng đáp trả một cách hòa bình mà không gây kích động Bắc Kinh phải đưa lực lượng hải quân đến khu vực của mình, mặc dù thời điểm đó, Nhật Bản chưa công bố yêu sách chủ quyền của mình.

Một số nhà phân tích lại xem lực lượng Cảnh sát Biển ở khu vực Biển Đông chỉ như một công cụ để giải quyết các tuyên bố lãnh thổ là một đánh giá có phần sai lệch. Nhiệm vụ của lực lượng cảnh sát biển rất đa dạng, bao gồm: tuần tra vùng lãnh hải và lãnh thổ tranh chấp; chống buôn lậu, chống vi phạm chủ quyền; kiểm soát và kiểm tra tàu biển; đảm bảo an toàn và an ninh ven biển; nghiên cứu và khảo sát biển; tìm kiếm cứu nạn trên biển; bảo vệ thủy sản và các nguồn tài nguyên biển…

Các chức năng bảo vệ bờ biển cho phép các nước xung quanh Biển Đông có sự hợp tác hàng hải trong việc giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Ví dụ, thông qua hợp tác bảo vệ bờ biển, Hiệp định hợp tác khu vực về chống vi phạm bản quyền và cướp vũ trang ở châu Á (ReCAAP) được tạo ra để giải quyết các hoạt động tội phạm trong vùng biển eo biển Malacca.

Lực lượng cảnh sát biển cũng có vai trò trong việc ứng phó sự cố tràn dầu; ví dụ, bài tập ô nhiễm hàng hải hàng năm (MARPOLEX) liên quan đến Philippines, Nhật Bản và Indonesia. Các lực lượng cảnh sát biển cũng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn hàng hải; các nhiệm vụ như vậy nằm trong lãnh hải tương ứng, cũng là các tuyến đường biển để vận chuyển quốc tế. Hơn nữa, với vai trò quan trọng trong việc tiến hành các hoạt động tìm kiếm và cứu nạn, một số thành viên ASEAN thực hiện một thỏa thuận đa phương và song phương với nhau và với Trung Quốc về vấn đề này. Mới đây, Nhật Bản và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận tìm kiếm và cứu nạn hàng hải với mục tiêu ứng phó với những rủi ro biển tiếp giáp với vùng biển của họ.

Vì vậy, đã đến lúc nhận ra vai trò thiết yếu của lực lượng cảnh sát biển trong việc tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đảm bảo an ninh, ổn định và hòa bình trên biển. Cần phải thấy rằng mục đích chính của lực lượng cảnh sát biển không phải là để khẳng định yêu sách lãnh thổ của một nước, mà là phục vụ như một phương tiện cho trật tự hàng hải khu vực.

RELATED ARTICLES

Tin mới