Saturday, November 23, 2024
Trang chủNhìn ra thế giớiThực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên...

Thực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông

Việt Nam có bờ biển dài 3.260km và diện tích các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền rộng trên 1 triệu km2. Vùng biển Việt Nam có vị trí quan trọng về an ninh- quốc phòng và nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.Trong những năm qua, biển đảo và đặc biệt là vấn đề bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo đã trở thành chủ đề được quan tâm ở trong nước, nhất là khi tình hình Biển Đông đang “nóng lên” trước các hoạt động phi pháp của hải quân Trung Quốc.

Cơ sở pháp lí để bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam:

 Là một quốc gia trải dài dọc theo bờ biển nên trong lịch sử Việt Nam thường bị các nước tấn công xâm lược từ biển. Vì vậy cơ sở pháp lí để khẳng định chủ quyền và bảo vệ biên giới quốc gia của Việt Nam trên biển đã được hình thành ngay từ rất sớm. Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan về biển: Chính phủ Việt Nam (12/5/1977) ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam; Chính phủ Việt Nam (12/11/1982) ra Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải; Quốc hội Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ V (23/6/1994) đã ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật Biển 1982; Luật Biên giới quốc gia ngày 17/6/2003 và Nghị định 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 về Quy chế Khu vực biên giới biển… Ngoài ra, Việt Nam đã đàm phán phân định vùng biển với một số nước có vùng biển tiếp giáp. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và giữ gìn an ninh trật tự trên các vùng biển của Việt Nam; đồng thời là cơ sở để tiếp tục tiến hành đàm phán phân định ranh giới vùng biển với các nước liên quan.

   Khi nước nhà thống nhất, chủ quyền trên biển của Việt Nam lại được tái khẳng định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất là Hiến pháp. Điều 1 các bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 (đã sửa đổi năm 2001) khẳng định: “ Nước Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”.

Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền trên biển:

   Để cụ thể hóa Hiến pháp và từng bước chuyển hóa các quy định của công ước Luật biển năm 1982 vào trong các quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam, pháp luật về bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển của Việt Nam, nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền biển cụ thể như sau: (1) Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về quy chế pháp lí cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt Nam. Theo quy định này, việc kiểm soát trên các vùng biển của Việt Nam được giao cho các lực lượng sau: Hải quân nhân dân Việt Nam và các đơn vị quân đội nhân dân Việt Nam; Cảnh sát nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ tuần tra trên biển; Bộ đội biên phòng Việt Nam, các lực lượng nửa vũ trang trên các tàu thuyền vận tải và tàu thuyền đánh cá của Việt Nam; Các lực lượng kiểm soát chuyên môn của các ngành Hải quan, y tế, kiểm dịch của Việt Nam. (2) Luật an ninh quốc gia năm 2004 quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam trên biển, gồm bộ đội biên phòng trên biển. (3) Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 1996 quy định về tổ chức và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ. (4) Pháp lệnh bộ đội biên phòng năm 1997 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ đội biên phòng. (5) Pháp lệnh cảnh sát biển năm 1998 quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, phạm vi hoạt động và cơ cấu tổ chức của lực lượng cảnh sát biển Việt Nam. (6) Nghị định 41/2001/NĐ-CP ngày 24/07/2001 của Chính phủ ban hành quy chế phối hợp thực hiện quản lí nhà nước về hoạt động của lực lượng cảnh sát biển và phối hợp hoạt động giữa các lực lượng trên các vùng biển và thềm lục địa; việc phân định vùng hoạt động của các lực lượng tham gia phối hợp trên các vùng biển và thềm lục địa. (6) Luật Biển Việt Nam năm 2012…

Các văn bản pháp luật đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của việt nam: (1) Các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như: Pháp lệnh xử phạt về phạm hành chính năm 2002(sửa đổi, bổ sung 2008); Nghị định số 92/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; Nghị định số 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam; Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản. (2) Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 đã đưa ra một số loại tội phạm có hành vi phạm pháp luật về biển, hàng hải cần được xử lý bằng pháp luật hình sự như: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ (Điều 212); Tội cản trở giao thông đường thủy (Điều 213); Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường thủy không đảm bảo an toàn (Điều 214). (3) Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 1990 (sửa đổi bổ xung năm 2005);Luật Giao thông đường thuỷ nội địa năm 2004; Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 29/01/2003 về vận tải đa phương thức quốc tế. (4) Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật trong các lĩnh vựcvề khai thác thuỷ sản, dầu khíbiển;nghiên cứu khoa học biển;về du lịch biển đảo; môi trường biển…

Thực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam

Quy chế pháp lí đối với tàu thuyền nước ngoài: Các tàu thuyền của Việt Nam hoặc nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của Việt Nam thì phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Quy chế hoạt động của tàu thuyền theo pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đề cập tới các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật Việt Nam trong trường hợp tàu thuyền có vi phạm: nghị định số 92/NĐ-CP ngày 04/09/1999 quy định các hình thức xử phạt vi phạm hành chính như cảnh cáo, phạt tiền lên tới 100 triệu Việt Nam; hay hình thức xử phạt bổ xung là tước quyền sử dụng bằng, giấy phép, giấy chứng nhận, hộ chiếu thuyền viên và tịch thu tang vật.

   Tàu thuyền nước ngoài ra vào phải xin phép và phải đáp ứng các điều kiện về neo đậu, đi qua theo pháp luật Việt Nam. Những vi phạm của tàu dân sự nước ngoài được áp dụng các biện pháp mang tính chất chế tài sau: Buộc tàu thuyền nước ngoài thể hiện rõ tư cách pháp lí của tàu thông qua việc làm sáng tỏ quốc tịch của tàu và lí do cũng như tính hợp pháp của tàu khi hoạt động trên các vùng biển của Việt Nam; Can thiệp cần thiết vào lịch trình của tàu để kiểm tra khám xét nếu có dấu hiệu khả nghi xâm phạm đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam; Lập biên bản bắt giữ tàu thuyền và người vi phạm; Khi cần thiết có thể sử dụng biện pháp quân sự đối với tàu vi phạm không tuân theo mệnh lệnh hoặc cố ý chống lại mệnh lệnh bằng vũ lực; Thực hiện quyền truy đuổi đối với tàu vi phạm bỏ trốn; Áp dụng các hình phạt như cảnh cáo, thu hồi giấy phép, trục xuất…

  Lực lượng cảnh sát biển là lực lượng có thẩm quyền xử phạt tại các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và cả thềm lục địa của Việt Nam. Quyền xử phạt hành chính của cảnh sát biển Việt Nam được đặt ra trong các lĩnh vực an linh trật tự, an toàn, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản hay tài nguyên khoáng sản hoặc đối với việc chống các hành vi buôn lậu.

Hải quân là lực lượng quan trọng bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam:

Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển, đảo. Nhiệm vụ của Hải quân là quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền quốc gia của Việt Nam, giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển, đảo theo quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và tham gia tìm kiếm, cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công trên hướng biển.Các tàu hải quân, tàu cảnh sát biển tuần tra trên vùng biển thuộc chủ quyền của mình để cảnh giác sự xâm nhập của các tàu lạ, tàu nước ngoài, kịp thời ngăn chặn và xua đuổi.

Trước tình hình đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển ngày càng khó khăn, phức tạp, Bộ Quốc phòng Việt Nam (29/8/2009) đã thành lập thêm Vùng 2 hải quân để bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía Nam, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế giáp Trường Sa. Nhiệm vụ chính của hải quân Vùng 2 là quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển từ Bình Thuận đến Bạc Liêu, trong đó có khu vực trọng điểm là vùng biển có các cụm kinh tế – khoa học – dịch vụ thuộc thềm lục địa phía Nam . Đây là hoạt động mới nhất của Việt Nam trong việc xây dựng năng lực quốc gia trong lĩnh vực biển đảo và phát triển kinh tế biển.

Hải quân Việt Nam đãtổ chức các buổi tuyên truyền cho các cấp lãnh đạo địa phương ven biển cùng ngư dân về vị trí, tầm quan trọng biển, đảo của Việt Nam, cũng như hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải quân nhân dân Việt Nam . Trong đó, chú trọng tuyên truyền về Luật Biển Việt Nam, Ðiều ước Quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết cho các lực lượng hoạt động trên biển. Không những trên đất liền, ngay cả trên biển, công tác tuyên truyền thường xuyên được chú trọng. tuyên truyền cho ngư dân về phạm vi chủ quyền vùng biển, đảo quốc gia

Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông

Các chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm của tàu thuyền nước ngoài còn chưa đủ mạnh. Trong thực tiễn áp dụng chế tài hành chính cho thấy bất cập giữa các quy định của các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính và việc áp dụng các quy định đó vào trong quá trình thực thi pháp luật trên các vùng biển về hiệu lực của văn bản, về thẩm quyền xử lý vi phạm, mức phạt tiền cao thấp khác nhau đối với các hành vi vi phạm hành chính trong cùng lĩnh vực, dẫn đến các cơ quan có thẩm quyền thường áp dụng các hình thức phạt theo các nghị định ban hành cuối cùng xét về thời gian ban hành văn bản, trong khi các văn bản pháp luật trước đang còn hiệu lực. Không những vậy, chế tài hình sự chưa được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm các cùng đánh bắt hải sản hoặc thực hiện quyền tài phán hình sự đối với một ngoài nước ngoài trên một con tàu đang đi qua vô hại trong lãnh hải Việt Nam bởi vì hiện nay, Việt Nam chưa có quy định hướng dẫn việc xét xử các hành vi vi phạm trên từng vùng biển và các loại tội phạm trên biển như các loại tội phạm về điều khiển phương tiện hàng hải, tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên, các tội gây ô nhiễm môi trường biển…

Thông tin về biển, đảo và các vùng chủ quyền trên biển còn thiếu cập nhật, công tác tuyên truyền về lĩnh vực này còn những hạn chế, chưa được tiến hành một cách đồng bộ, thường xuyên, liên tục. Nội dung, hình thức tuyên truyền chưa hấp dẫn, chưa hướng mạnh về cơ sở, đến tận người dân, nhất là khu dân cư vùng biển, đảo và ven biển. Sự hiểu biết pháp luật về biển và ý thức giữ gìn tài nguyên, môi trường biển của người dân còn hạn chế đã hạn chế ít nhiều đến hoạt động bảo vệ chủ quyền biển của Việt Nam, đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay là một khiếm khuyết rất lớn. Các thông tin đối ngoại liên quan đến biển và đảo còn thiếu và bất cập. Hiện nay Việt Nam rất thiếu các ấn phẩm chứa đựng thông tin bằng các thứ tiếng để chuyển tải ra thế giới. Điều này đã khiến nhiều kênh thông tin và người dân nước ngoài nhầm lẫn hoặc chưa hiểu được chủ quyền của Việt Nam . Đơn cử như Google Earth đã nhiều lần công bố nhầm lẫn thông tin quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc.

   Ngoài ra, tình hình liên quan đến chủ quyền trên biển Đông, nhất là ở khu vực vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định.Hiện tượng tàu thuyền của ngư dân ta đánh bắt xa bờ trên các vùng biển thuộc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị nước ngoài bắt, cướp đoạt tài sản và đòi tiền nộp phạt ngày càng tăng. Từ đó đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là ngư dân lo sợ cho tính mạng và tài sản nên không còn đánh bắt tại các địa điểm còn tranh chấp, hơn nữa là chuyển đổi sang các ngành nghề trên đất liền. Bởi chưa có các chính sách hỗ trợ ngư dân, chúng ta đã và đang mất dần những quyền lợi trên biển mà đáng lẽ ra chúng ta phải được hưởng.

   Tranh chấp các khu vực khai thác tài nguyên thiên nhiên trên vùng biển chung đang diễn biến phức tạp và chưa đi đến một thỏa thuận chung. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động khai thác cũng như vảo vệ chủ quyền của Việt Nam.

Từnhững về đề trên cho thấy, Việt Nam cần thúc đẩy các biện pháp tổng hợp để công tác bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông đạt hiệu quả tốt nhất: (1)Phải tổ chức rà soát, hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật về biển để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã quá đỗi lỗi thời; ban hành các văn bản pháp luật mới về biển mang tầm quốc gia nhằm từng bước tiến hành xây dựng cho được một hệ thống đồng bộ các luật, văn bản quy phạm pháp luật về biển mang tính chất pháp lý cao nhằm điều chỉnh các hoạt động bảo vệ chủ quyền trên biển, trên cơ sở phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc tế. Đồng thời thể hiện được quan điểm, lập trường và đáp ứng yêu cầu của nhà Việt Nam trong tăng cường quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên biển, đảo. (2) Mở rộng phạm vi, vai trò và chức năng của các cơ quan lập pháp như Tòa án, Viện kiểm sát các cấp trong việc tố tụng, xét xử các vụ việc vi phạm về chủ quyền các vùng biển của Việt Nam. (3) Việt Nam cần liên kết với các tổ chức quốc tế để thành lập Toà án quốc tế để giải quyết, xét xử các tranh chấp trên biển. Đồng thời Việt Nam cũng cần phối hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới trong việc xét xử các tội phạm quốc tế khi vi phạm chủ quyền vùng biển của Việt Nam. (4) Cần tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng lực lượng vũ trang chuyên trách, nòng cốt để quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia thực sự vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng cao, có quân số và tổ chức hợp lí. (5) Đào tạo trong và ngoài nước đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý biển nhiều về số lượng, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được nhu cầu phát triển biển có đủ nghị lực và trí tuệ tham gia giải quyết tranh chấp trên biển bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp trên trường quốc tế. (6) Cần thường xuyên cập nhật các thông tin về các vùng biển đảo của Việt Nam; tiến hành xây dựng kế hoạchtuyên truyền một cách đồng bộ, thường xuyên, liên tục.

RELATED ARTICLES

Tin mới