Sau 40 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Với thành quả phát triển kinh tế – xã hội sau cải cách mở cửa, thế hệ lãnh đạo thứ năm của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra khẩu hiệu mới “Giấc mơ Trung Quốc”, “phục hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại”, kỳ vọng đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Nhằm thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược về ngoại giao, kinh tế, quân sự và trong cả vấn đề Biển Đông.
Điều chỉnh chiến lược ngoại giao và phương thức phát triển kinh tế
Sau Đại hội 19, Trung Quốc đã điều chỉnh chiến lược ngoại giao, nâng ngoại giao láng giềng lên thành ưu tiên số một, hình thành nền “ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc”, thiết lập quan hệ nước lớn kiểu mới, thúc đẩy tiến trình thiết lập “trục riêng” tại châu Á. Trung Quốc ngày càng thể hiện vai trò nước lớn; từ bỏ phương châm “giấu mình chờ thời” do Đặng Tiểu Bình đề ra; từng bước chuyển từ “thế thủ” sang “thế công” về đối ngoại, tích cực hơn trong các công việc quốc tế, chủ động hơn trong việc tranh giành và mở rộng ảnh hưởng về kinh tế, ngoại giao trên phạm vi toàn cầu và khu vực; gắn chính sách “ngoại giao láng giềng” với “ngoại giao nước lớn”, “ngoại giao năng lượng” và “chiến lược biển”…
Điều đáng chú ý là, sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với kinh tế của Trung Quốc mặc dù được thực hiện bằng “phương thức mềm và linh hoạt”, nhưng cũng có tác động làm thay đổi tương quan lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực, đặt các định chế kinh tế quốc tế và khu vực trước những thách thức mới, buộc phải sửa đổi hay bổ sung. Thực chất những điều chỉnh chiến lược ngoại giao nêu trên phần nào cũng xuất phát từ thực trạng phương thức phát triển kinh tế trong nước. Đó là, trong quá trình cải cách mở cửa, Trung Quốc đã chủ yếu dựa vào ưu thế nguồn lao động giá rẻ, tài nguyên, năng lượng và đầu tư của chính phủ đưa nước này trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Mô hình này đến giai đoạn hiện nay không còn phù hợp nữa, dần mất đi sức cạnh tranh, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, hiệu quả thấp, sản xuất dư thừa, và vì vậy Trung Quốc đã đẩy mạnh chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế. Từ sau Đại hội 18, lãnh đạo Trung Quốc đã nêu ra khái niệm “trạng thái bình thường mới” trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, với một số đặc điểm chủ yếu như: Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng kinh tế từ mức độ cao chuyển sang mức độ từ trung bình đến cao; thúc đẩy nâng cấp cơ cấu kinh tế; thay đổi động lực từ dựa vào xuất khẩu, đầu tư là chủ yếu sang chủ yếu dựa vào sáng tạo, tiêu dùng lôi kéo kinh tế phát triển.
Trọng tâm của chuyển đổi phương thức kinh tế trong nước gắn với điều chỉnh chiến lược ngoại giao thể hiện trên một số điểm như: Đẩy mạnh triển khai Chiến lược “Một vành đai, một con đường” (OBOR); thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB); tiếp tục thúc đẩy quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ; thử nghiệm xây dựng khu thương mại tự do ở Thượng Hải, Phúc Kiến, Quảng Đông, Thiên Tân; đẩy nhanh việc mở cửa các vùng biên, thực hiện chính sách và phương thức đặc thù trong hợp tác kinh tế, đi lại, thanh toán biên mậu, kết nối hạ tầng với các nước láng giềng; nâng cấp khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN; đưa ra sáng kiến mới về hợp tác sông Lan Thương – Mê Công; thúc đẩy xây dựng khu thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương; thúc đẩy đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…
Trong đó, nổi bật nhất là việc Trung Quốc đẩy mạnh thực hiện Chiến lược OBOR. Thực hiện Chiến lược này cũng là phản ứng của Trung Quốc trước chính sách “xoay trục châu Á” của Mỹ để cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở khu vực và trên thế giới. Chiến lược OBOR kết hợp với AIIB, quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ là trọng tâm và có ảnh hưởng tới định chế tài chính tiền tệ quốc tế hiện có và quan hệ kinh tế của Trung Quốc với nhiều nước trên thế giới. Trong vòng 3 năm lại đây, ngoại giao OBOR kết hợp với mục đích kinh tế của Trung Quốc đã trở thành hướng quan trọng nhằm thúc đẩy doanh nghiệp Trung Quốc đi ra ngoài, giải quyết năng lực sản xuất dư thừa, mà trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước liên quan đến ngành xây dựng cơ sở hạ tầng; từ đó góp phần giúp nền kinh tế Trung Quốc tránh được nguy cơ hạ cánh cứng.
Những động thái điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế trên đây của Trung Quốc đã, đang và sẽ có tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến các định chế tài chính tiền tệ quốc tế, kinh tế thế giới, khu vực. Nhìn bề ngoài, có thể thấy rằng, Trung Quốc tập trung nhiều vào kinh tế hơn là chính trị. Tuy nhiên, ẩn chứa đằng sau sự điều chỉnh này là ý đồ “Chiến lược toàn cầu” của Trung Quốc, từ chi phối ảnh hưởng kinh tế đến chi phối ảnh hưởng về chính trị. Trong phạm vi bài viết này, chủ yếu phân tích những tác động về mặt kinh tế đối với thế giới và khu vực. Điều này thể hiện ở một số đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, tác động đến các định chế tài chính quốc tế. Việc Trung Quốc đưa ra một số sáng kiến gần đây như AIIB, quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ là những chính sách nhằm tìm kiếm một vị trí mới trong các vấn đề quốc tế. Ở một khía cạnh nhất định, những sáng kiến trên đây của Trung Quốc là phù hợp với sự phát triển của quốc gia này trong thời gian gần đây khi mà họ đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng vai trò của họ tại các định chế tài chính tiền tệ quốc tế vẫn còn rất thấp. Trong Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), mức góp vốn của Trung Quốc chỉ có 4,2%, Mỹ là 17,7%, vì vậy Mỹ có quyền phủ quyết mọi nghị quyết của IMF (quyền này đòi hỏi ít nhất có 15% số phiếu biểu quyết). Tỷ lệ phần biểu quyết của Mỹ ở Ngân hàng thế giới (WB) là 16,4%, của Trung Quốc chỉ có 2,8%. Mức đóng góp thấp cũng đồng nghĩa với tiếng nói yếu và Trung Quốc đã nhiều lần yêu cầu các định chế tài chính khu vực và toàn cầu điều chỉnh mức đóng góp, nhưng các đề nghị này đã bị trì hoãn. Không hài lòng với những đề nghị cải cách trong hệ thống các định chế tài chính hiện hành, Trung Quốc trong chiến lược hướng tới một cường quốc có ảnh hưởng tới thế giới đã đưa ra những sáng kiến thành lập các định chế tài chính của riêng mình. Nhiều quan điểm cho rằng, AIIB có chức năng hoạt động tương tự như WB nhưng các điều kiện mở rộng hơn, đồng thời cũng xây dựng quỹ tiền tệ tương tự như IMF. Theo đánh giá của giới chuyên gia, AIIB không có những kiểu chính sách thắt lưng buộc bụng như IMF thì AIIB sẽ nhanh chóng chiếm nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế ngoài châu Á cũng như châu Âu, đặc biệt là Đông Âu. Theo New York Times, Trung Quốc với nguồn lực tài chính hùng mạnh, giờ đây sẽ là đối thủ của Mỹ khi IMF đã chính thức chấp thuận đồng Nhân dân tệ gia nhập rổ tiền tệ thế giới, cùng với đồng USD, Euro, bảng Anh và yên Nhật. Đến nay, có 57 nước tham gia và phê chuẩn tham gia AIIB, trong đó có Anh, Pháp, Đức, Australia là các đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Trước tình thế bị cô lập trong vấn đề này, Mỹ đã thay đổi thái độ của mình, mặc dù không tham gia nhưng tuyên bố không ngăn cản các đồng minh của họ tham gia. Thực tế, Mỹ khó có thể ngăn cản những sáng kiến này của Trung Quốc và không thể ngăn cản sự tham dự của các nước khác, vì vậy, cách tốt nhất là phải tìm cách kiểm soát hoạt động của các sáng kiến này. Mỹ đã đưa ra các yêu cầu rằng, các định chế tài chính mà Trung Quốc thiết lập phải tuân thủ các nguyên tắc đã được xác lập, hàm ý một sự can thiệp. Về cơ bản, Mỹ không dễ nhượng bộ bất kỳ nước nào trong việc khống chế và lãnh đạo các định chế tài chính quốc tế đã được lập ra trong khuôn khổ Hệ thống Bretton Woods và đây là một trong những trụ cột để Mỹ tạo ra các ảnh hưởng kinh tế cũng như chính trị trên toàn cầu.
Hai là, hình thành cuộc cạnh tranh và chạy đua giữa: Trung Quốc với Chiến lược OBOR, nhằm từng bước bình định khu vực ngoại vi; Mỹ với Đại chiến lược (grand strategy) và chiến lược “Cân bằng bên ngoài” (offshore balancing); Nga với kế hoạch tham vọng “Tuyến đường sắt Á – Âu” nhằm khôi phục ảnh hưởng của nước này ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang bị Trung Quốc lấn át. Đặc biệt điều này đã làm cho Tổng thống Mỹ Donald Trump chỉ trích các chính sách tiền tệ và thương mại Trung Quốc, đồng thời áp mức thuế từ 35% tới 45% đối với hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc sang Mỹ.
Ba là, làm cho các nền kinh tế mới nổi gắn chặt với Trung Quốc. Điều này thể hiện ở chỗ Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, đầu mối kết nối với các nước lớn đang phát triển, bao gồm: Nga, Brazil, Nam Phi, Ấn Độ, Indonesia… Hiện nay Bắc Kinh có nhiều nhân tố làm cho Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, nhất là hợp tác kinh tế. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Nga và Trung Quốc đã tăng nhanh trong những năm gần đây và dự báo đến năm 2020 đạt 200 tỷ USD. Theo thống kê của phía Trung Quốc, với Brazil, cho đến nay Trung Quốc vẫn là bạn hàng thương mại lớn nhất. Năm 2015, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và Brazil đạt 71,5 tỷ USD. Với Nam Phi, trong những năm gần đây quan hệ kinh tế song phương không ngừng phát triển (năm 2014 kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đạt 60,3 tỷ USD, Trung Quốc 6 năm liền trở thành đối tác thương mại lớn nhất), Nam Phi cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc ở châu Phi…
Bốn là, xuất hiện những cặp quan hệ kinh tế “không cân xứng” giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Điển hình là các cặp quan hệ kinh tế Trung Quốc – Myanmar, Trung Quốc – Pakistan, Trung Quốc – Campuchia, Trung Quốc – Lào, Trung Quốc – Việt Nam, Trung Quốc – Mông Cổ, Trung Quốc – Bắc Triều Tiên… Tính “không cân xứng” thể hiện ở sự phụ thuộc ngày càng lớn của các quốc gia này vào Trung Quốc về thương mại, viện trợ và đầu tư, dẫn đến sự ảnh hưởng và lệ thuộc về chính trị và quan trọng hơn là chính sách đối ngoại. Tính “không cân xứng” còn biểu hiện ở chỗ, do trình độ phát triển kinh tế của Trung Quốc còn có những hạn chế nhất định, nên các khoản đầu tư của Trung Quốc thường không hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, chuyển giao công nghệ trong dài hạn, đồng thời tạo ra những tác động tiêu cực dài hạn đối với môi trường tự nhiên và xã hội của các quốc gia này. Những cặp quan hệ kinh tế này xuất hiện một phần do nhu cầu phát triển của bản thân các quốc gia đó về nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên cơ sở “lấy tài nguyên làm vốn”, nhưng quan trọng hơn các quốc gia này dường như là kho dự trữ năng lượng và tài nguyên để phục vụ các mục tiêu trong sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao và phương thức phát triển của Trung Quốc.
Năm là, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho Liên minh châu Âu (EU). Trung Quốc là bạn hàng lớn của EU, việc tăng cầu trong nước cùng với xã hội trung lưu phát triển sẽ tạo ra một thị trường hấp dẫn cho xuất khẩu của EU, nhưng cũng là đối thủ cạnh tranh trong thương mại cũng như tranh giành các nguồn lực của EU. Trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua, ở châu Âu đang dấy lên những lo ngại về việc Trung Quốc “tràn ngập” thị trường EU với hàng hóa giá rẻ và cướp mất việc làm trong lĩnh vực sản xuất ở châu Âu. Việc điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc sẽ gây ra những tác động cả tích cực và tiêu cực tới EU. Trước hết là những nỗ lực của Trung Quốc trong Chiến lược OBOR cùng với việc tăng cường thương mại, đầu tư, quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ sẽ là môi trường truyền dẫn các tác động đa chiều tới EU. Về những tác động tích cực, nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc cung cấp những lợi ích kinh tế tương tự như các dòng vốn đầu tư trực tiếp khác từ bên trong hoặc bên ngoài EU. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của Trung Quốc khiến châu Âu lo lắng về một số vấn đề: Một lượng lớn FDI chảy vào EU có thể khiến EU bị cuốn theo sự lên xuống thất thường cũng như những bất ổn kinh tế vĩ mô của Trung Quốc; chính sách công nghiệp dựa trên doanh nghiệp nhà nước hay sở hữu nhà nước có thể khiến cho các doanh nghiệp Trung Quốc có khuynh hướng di dời khối tài sản vừa được mua lại hơn là duy trì chúng ở châu Âu; các công ty của Trung Quốc có thể tăng cường lợi thế cạnh tranh không lành mạnh nhờ vào được hoạt động và đầu tư tự do hơn ở châu Âu so với việc các đối thủ cạnh tranh EU có thể làm được ở Trung Quốc; các công ty Trung Quốc vốn đã quen với các quy định lỏng lẻo ở nước mình sẽ mang đến thói quen về nguồn lao động rẻ, môi trường và thực tiễn khác tới châu Âu, trong khi các nước EU lại quá háo hức để thu hút đầu tư tạo việc làm nên sẽ tìm mọi cách để níu giữ các công ty Trung Quốc. Ngoài ra còn những mối lo ngại nảy sinh từ quy mô và tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc, từ các yếu tố phi thị trường còn tồn tại và sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản nhà nước…
Sáu là, đối với ASEAN, những điều chỉnh chiến lược ngoại giao và phương thức phát triển kinh tế mới của Trung Quốc làm cho sự tùy thuộc kinh tế lẫn nhau giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng tăng lên. Hiểu theo chiều hướng xấu thì những tác động thách thức dẫn đến sự phụ thuộc về kinh tế của khá nhiều nước thành viên ASEAN như Việt Nam, Myanmar, Campuchia, Lào, Malaysia, Philippines và Thái Lan vào Trung Quốc sẽ tăng lên theo thời gian. Điều này được thể hiện khá rõ trước nhất ở xu hướng phụ thuộc vào thương mại với Trung Quốc của các nước này ngày càng gia tăng. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tới ASEAN luôn duy trì ở mức cao trong khi ở chiều ngược lại, xuất khẩu từ ASEAN tới Trung Quốc lại có phần chậm hơn. Hậu quả là, các nước ASEAN trở thành các nước nhập siêu ngày càng lớn trong quan hệ thương mại với Trung Quốc.
Nhìn chung, sau Đại hội 19, Trung Quốc đã có những điều chỉnh chiến lược ngoại giao và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế với mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu trên thế giới, tham gia vào việc đặt ra các “luật chơi” mới của thế giới. Những sáng kiến hay chiến lược mới của Trung Quốc đề ra đã có những tác động lôi kéo sự tham gia của nhiều nước trên thế giới vì lợi ích kinh tế, hình thành cục diện cạnh tranh vị thế và ảnh hưởng về kinh tế giữa các nước lớn, đặc biệt là cạnh tranh Trung – Mỹ. Đồng thời, cùng với sự trỗi dậy và ảnh hưởng về kinh tế ngày càng gia tăng trên thế giới và khu vực, sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc đã làm cho nền kinh tế của nhiều nước “phụ thuộc” vào Trung Quốc, nhất là thương mại và đầu tư. Điều này đem lại những tác động tích cực đan xem với tiêu cực đối với nền kinh tế của nhiều nước.
Điều chỉnh chính sách quốc phòng
Nhờ kinh tế liên tục tăng trưởng từ khi cải cách, mở cửa bốn thập kỷ qua, ngân sách quốc phòng cũng tăng lên. Từ năm 1996, Trung Quốc tăng chi phí quân sự trung bình 11%/năm. Mấy năm gần đây, ngân sách quân sự của Trung Quốc tăng 7,6%.
Tổ chức quân đội Trung Quốc chuyển sang cơ bản giống mô hình quân đội Mỹ. Hệ thống chỉ huy gồm Quân ủy Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Quân ủy (cũng chính là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đảm nhiệm) có quyền chỉ huy tối cao và tuyệt đối, thông qua Bộ Tổng tham mưu liên hợp (như mô hình Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ) và các Bộ Tư lệnh liên hợp chiến khu, các Tổng bộ. Lãnh đạo Trung Quốc nắm toàn quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang. Quân đội Trung Quốc đặt công tác xây dựng chính trị, tư tưởng lên hàng đầu, chú trọng sáng tạo phát triển lý luận quân sự mới. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (1/2/2016) đã chính thức ký quyết định cải tộ quân đội, thành lập 5 Bộ Tư lệnh chiến trường mới được thành lập của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Theo đó, 5 Bộ Tư lệnh chiến trường mới được thành lập gồm: Bộ Tư lệnh chiến trường Đông, Bộ Tư lệnh chiến trường Bắc, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây, Bộ Tư lệnh chiến trường Nam và Bộ Tư lệnh chiến trường Trung tâm. Trong buổi giao nhiệm vụ cho các tướng lĩnh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh: “Mỗi bộ tư lệnh chiến trường phải tập trung nghiên cứu chiến tranh hiện đại và chủ động nắm bắt các sáng kiến chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh trong tương lai. Phải tăng cường chỉ huy hiệp đồng quân binh chủng, tác chiến với hậu cần, đảm bảo quân đội sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng”. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định rằng, việc thành lập các bộ tư lệnh chiến trường này và hình thành hệ thống chỉ huy chiến đấu chung là một quyết định chiến lược của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương nhằm thực hiện ước mơ của Trung Quốc về một quân đội hùng mạnh. Trước khi tái cơ cấu, Trung Quốc có 7 đại quân khu gồm: Bắc Kinh, Thẩm Dương, Tế Nam, Nam Kinh, Quảng Châu, Thành Đô và Lan Châu. Sau quyết định này, các đại quân khu này không còn chức năng hoạt động nữa. Năm Bộ Tư lệnh chiến trường này được thành lập dựa trên chức năng và tổ chức của các đại quân khu trước đây, với chức năng chỉ huy và hỗ trợ hậu cần được cải thiện.
Ngoài ra, Trung Quốc cắt giảm quân số, tiến tới đưa tỉ lệ lục quân so với hải quân, không quân tiếp cận tỉ lệ 4/6 như các nước Mỹ, Anh, Pháp. Nét nổi bật là Trung Quốc cắt giảm quân số lục quân, nhưng tăng quân số hải quân, không quân và tên lửa chiến lược, tức tăng quân số ở các đơn vị được trang bị vũ khí công nghệ cao. Trung Quốc cũng chú trọng đầu tư trang bị, hiện đại hóa, bổ sung trang bị mới, tăng cường đáng kể sức mạnh của quân đội. Ngoài lực lượng đã có, năm 2017, hải quân Trung Quốc có thêm 1 tàu sân bay, dẫn đầu công nghệ đẩy cho tàu ngầm. Tháng 3/2017, Trung Quốc bắt đầu đóng tàu đổ bộ tấn công loại lớn. Tháng 6/2017, Trung Quốc hạ thuỷ tàu chiến tân tiến nhất châu Á, tạo bước chuyển lớn trong quá trình hiện đại hóa trang bị hải quân.
Tại Thái Bình Dương, Trung Quốc hoàn tất bồi đắp đảo quy mô lớn trên 7 thực thể (phi pháp); nối liền các đảo nhân tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng 3 đường băng dài 3.300 m, cho phép các máy bay chiến đấu hiện đại hạ cánh, biến chúng thành những “căn cứ dân sự – quân sự” nhằm tăng cường sự hiện diện lâu dài trên Biển Đông. Ngoài Quân chủng Hải quân, Trung Quốc chú trọng xây dựng lực lượng “Dân quân biển” từ ngư dân, sử dụngtàu đánh cá để tập trận trong vùng tranh chấp. Ngư dân được huấn luyện quân sự, trợ cấp về nhiên liệu và đá trong các chuyến đánh bắt cá, có nhiệm vụ thu thập thông tin về các tàu nước ngoài đi qua Biển Đông, tham gia tìm kiếm cứu hộ, vận chuyển nguyên vật liệu để xây dựng, cải tạo đảo đá hay ngăn chặn tàu nước ngoài trong trường hợp hải quân không tiện can thiệp. Đây là chiến lược “đánh cá, bảo vệ, chiếm giữ và quản lý” – một phần trong chiến lược tổng thể nhằm làm chủ vùng Tây Thái Bình Dương.
Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự trên đại dương này. Lần đầu tiên, Trung Quốc có căn cứ quân sự ở nước ngoài, trong chủ trương thiết lập chuỗi các căn cứ quân sự ven biển dọc các tuyến đường vận tải từ Trung Quốc sang châu Phi, Trung Đông. Căn cứ quân sự đầu tiên đặt tại Djibouti, nối Biển Đỏ và Vịnh Aden, gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tại châu Phi và Ấn Độ Dương, đồng thời còn nhằm ngăn Mỹ hỗ trợ lực lượng cướp biển vùng Sừng châu Phi hoạt động trên tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng của Trung Quốc.
Một số khó khăn, thách thức: Tuy Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quân sự, nhưng đến nay mới đạt khoảng 147,7 tỷ USD, trong khi đó ngân sách quân sự năm 2017 của Mỹ đã lên tới 626 tỷ USD, tức là ngân sách quốc phòng Trung Quốc mới bằng một phần tư chi phí quân sự của Mỹ. Ngân sách này lại phải chi phí cho giảm quân, tăng cường trang bị hiện đại quân đội, nên chi phí cho huấn luyện sẽ bị hạn chế.Trung Quốc chậm thu hẹp khoảng cách với các cường quốc phát triển về sản xuất những trang bị chủ yếu. Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc đứng thứ tư trên thế giới, không phải là nước nắm công nghệ gốc, nên hạn chế khả năng nghiên cứu, phát triển các phương tiện chiến đấu chủ yếu như máy bay chiến đấu hay tên lửa không đối không tiên tiến. Việc tinh giảm biên chế gặp khó khăn về tạo việc làm, bảo đảm phúc lợi xã hội. Chính phủ khó bố trí ngân sách hỗ trợ quân nhân giải ngũ. Nội trị Trung Quốc gặp không ít thách thức, như khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, vấn đề Hồng Công, Ma Cao… khiến quân đội phải dàn trải nguồn lực để đối phó. Ngoài ra, quân đội Trung Quốc nhìn chung vẫn ít dịp thử thách, thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực sử dụng vũ khí hạn chế, khả năng tấn công từ xa và kỹ thuật tác chiến chống tàu ngầm còn yếu; chưa phát triển được năng lực tác chiến biển xa đáng tin cậy.
Điều chỉnh chính sách về vấn đề Biển Đông
Sau phán quyết của Tòa Trọng tài, Trung Quốc nhìn chung giảm mức độ quyết đoán ở Biển Đông nhưng tiếp tục củng cố thế đứng chân trên các điểm chiếm đóng. Có thể thấy, Trung Quốc ra tuyên bố bác bỏ và bất chấp phán quyết của Tòa trọng tài bằng nhiều hoạt động: Tiếp tục quân sự hóa và cải tạo phi pháp các đảo nhân tạo ở Biển Đông, ban hành và thực hiện lệnh cấm đánh bắt cá năm hàng năm, Trung Quốc can thiệp bất hợp pháp vào quyền chủ quyền của Philippines và Việt Nam ở Biển Đông…
Tuy nhiên, Trung Quốc có hai dấu hiệu nhằm giảm căng thẳng. Thông qua Tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc về chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông ngày 12/7/2016 và Sách trắng của Quốc vụ viện về lập trường giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông. Trong đó, Trung Quốc tái khẳng định chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Bên cạnh đó, các lực lượng của Trung Quốc trên thực địa không cản trở ngư dân của Philippines tiếp cận vùng đánh bắt cá truyền thống xung quanh Bãi cạn Scarborough.
Về phương diện quản lý, Trung Quốc tìm cách hạn chế hoạt động của ngư dân với việc thông qua Kế hoạch Ngư nghiệp năm năm lần thứ 13 (1/2017), trong đó có quy định giảm 1/6 sản lượng đánh bắt (từ 12 triệu tấn hiện nay xuống còn 10 triệu tấn trong vòng 5 năm tới), quy định mới của chính quyền Hải Nam nhằm kiểm soát việc sản lượng đánh bắt sò tai tượng (giant clam) của ngư dân ở Đàm Môn (Tanmen). Bên cạnh đó, Trung Quốc tăng cường hợp tác với Philippines trong lĩnh vực chấp pháp biển với việc thành lập Ủy ban Cảnh sát biển hỗn hợp với Philippines (2/2017) và triển khai các hoạt động tuần tra chung cùng Philippines; dừng triển khai các hoạt động thăm dò dầu khí mới ở những vùng biển của các nước khác, hoặc là vùng được coi là tranh chấp. Trung Quốc cũng chủ động kiểm soát phản ứng của dư luận nội bộ, ngăn chặn các thảo luận và hoạt động kích động chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại hơn là Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động quân sự để củng cố năng lực triển khai sức mạnh và kiểm soát Biển Đông, bao gồm tập trận, tuần tra trên không và củng cố các tiền đồn, hỏa lực ở Hoàng Sa và Trường Sa. Các ảnh chụp từ vệ tinh gần đây cho thấy Trung Quốc liên tục mở rộng các cơ sở quân sự ở Hoàng Sa: ba trong số tám thực thể mà Trung Quốc kiếm soát đã được xây dựng cầu cảng có thể tiếp nhận một số lượng lớn các tàu dân sự và hải quân; bốn hòn đảo nhỏ khác có cảng nhỏ hơn và một cảng được xây dựng trên đảo Duy Mộng; năm đảo ở Hoàng Sa có bãi đáp trực thăng, trong đó đảo Quang Hòa (Duncan Island) có căn cứ trực thăng; trên Đảo Phú Lâm đường băng được mở rộng và nhiều nhà chứa máy bay được xây dựng.
Ở Trường Sa, Trung Quốc đã xây dựng các hệ thống ra-đa, nhà chứa và bãi đỗ cho khoảng 80 máy bay chiến đấu và 24 Tòa tháp lục giác có mái che di động ở trên đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn. Các chuyên gia quân sự cho rằng các cấu trúc này là các công sự để bố trí súng phòng không và tên lửa đất đối không (SAM) sử dụng để bắn hạ máy bay và tên lửa phóng tới. Các bước đi này cho phép Trung Quốc tiếp tục vươn ra, củng cố năng lực kiểm soát Biển Đông, nhưng không vi phạm phán quyết và không tạo nên phản ứng quyết liệt từ các quốc gia tranh chấp khác.
Sau phán quyết, cùng với việc điều chỉnh lập trường và hạn chế các hoạt động gây căng thẳng trên thực địa, Trung Quốc chủ động triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, ngoại giao để hạn chế tác động của phán quyết, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài. Trung Quốc tiếp tục sử dụng chiến thuật “chia để trị”, vận động các nước thân Trung Quốc trong khi hăm dọa các nước liên quan đến tranh chấp để ngăn chặn việc hình thành mặt trận chung chống lại Trung Quốc. Ngoại giao Trung Quốc được triển khai theo năm hướng sau: Tăng cường đối thoại và can dự với các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp Biển Đông; Vận động các nước ủng hộ lập trường của Trung Quốc, ngăn cản các nước khác công khai ủng hộ phán quyết và phê phán của Trung Quốc; Răn đe các nước liên quan, chặn các diễn đàn đa phương đề cập đến phán quyết; Chủ động hoàn thành đàm phán khung COC và bắt đầu đàm phán nội dung thực chất; Chủ động đề xuất cơ chế hợp tác giữa các bên tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông.
Những điều chỉnh trên do nhiều nguyên nhân: Phán quyết của Tòa Trọng tài và phản ứng của quốc tế có tác dụng kiềm chế hành vi của Trung Quốc. Mặc dù tuyên bố rằng phán quyết là “sai trái và vô giá trị”, nhưng Trung Quốc buộc phải tránh các hoạt động gây hấn bởi thiệt hại từ việc vi phạm lớn hơn cái giá phải trả cho việc tuân thủ. Phiên Tòa và phán quyết cũng làm cho các hoạt động vi phạm pháp luật của Trung Quốc trở nên khó khăn hơn. Không những vậy, những điều chỉnh của Trung Quốc ở Biển Đông nằm trong thay đổi lớn hơn trong ưu tiên của chính sách đối ngoại của Tập Cận Bình là thúc đẩy các đại dự án Vành đai và Con đường (BRI) để tạo vị thế chủ chốt của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế ở khu vực. Ngoài ra, những điều chỉnh trong chính sách Biển Đông của Trung Quốc còn do tác động của một số nhân tố nội bộ. Kể từ hội nghị Trung ương 6 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã củng cố vai trò lãnh đạo, trở thành lãnh đạo hạt nhân của toàn Đảng và toàn quốc. Sau khi được bầu lại vai trò Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiệm kỳ hai, Tập Cận Bình tìm cách vận động việc xóa bỏ quy định về hai nhiệm kỳ đối với chức vụ Chủ tịch nước mở đường cho việc nắm quyền trọn đời. Với việc vị thế trong nền chính trị trong nước được củng cố, ông Tập không cần sử dụng vấn đề Biển Đông để kích động tinh thần dân tộc. Bên cạnh đó, dưới sự tác động của sự sụt giảm giá năng lượng toàn cầu, các tập đoàn dầu khí của Trung Quốc không có động lực để thúc đẩy các dự án thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi tốn kém về chi phí và rủi ro địa chính trị cao.