Cuộc chiến Biên giới 1979 nhằm ‘dạy cho Việt Nam một bài học’ là cơ hội Đặng Tiểu Bình xóa đi di sản quân sự Mao Trạch Đông và nhằm đạt ba mục tiêu chiến lược.
Nhưng ngày nay, cách nhìn các vấn đề quốc tế của Đặng đang bị âm thầm loại bỏ.
Chiến tranh chỉ là phương tiện
Ngày 16/2/1979, Trung ương Đảng TQ họp các tư lệnh quân đội để thông báo về cuộc chiến “phản kích tự vệ” nhằm vào cựu đồng chí, đồng minh Việt Nam.
Hoa Quốc Phong chủ trì hội nghị và tuyên bố lý do Bắc Kinh cần trừng phạt “Việt Nam kiêu ngạo”, làm “tiểu bá” theo chân Liên Xô ở Đông Nam Á.
Sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại Campuchia cũng là lý do để Trung Quốc ra tay.
Sau đó, Đặng Tiểu Bình, người vừa được phong làm tư lệnh tối cao của chiến dịch, phát biểu nêu ra mục tiêu của cuộc chiến không phải là chiếm đất, tấn công thủ đô Hà Nội mà nhằm cho Việt Nam “một bài học”.
Về quân sự, Trung Quốc muốn làm suy yếu nước láng giềng phía Nam, qua hai mục tiêu:
1-tàn phá tối đa các tỉnh giáp biên của Việt Nam
2- dừng lại chờ, chặn đánh quân chủ lực của Việt Nam phải rút về từ Campuchia
Nhưng Đặng cũng nói cho các tướng Trung Quốc biết đây sẽ là thử thách cho Quân Giải phóng, nhất là bộ binh.
Các binh chủng không quân và hải quân Trung Quốc sẽ không trực tiếp tham chiến mà chỉ hỗ trợ, để tránh một cuộc chiến lan rộng.
Đây là lời hứa của Đặng với Jimmy Carter, nhưng cũng là cách nhằm ‘nắn gân’ xem Liên Xô có tham chiến hay không.
Tuy thế, Trung Quốc cũng đã tăng cường nhiều sư đoàn lên vùng biên giới với Liên Xô và di dời hàng vạn dân khỏi vùng sát đường biên để phòng ngừa.
Ngay từ giai đoạn 1982-83, các sử liệu công bố ở Phương Tây và châu Á đã xác nhận Đặng không nói dối về mục tiêu cụ thể của cuộc chiến 1979.
Thậm chí, chỉ sang ngày 23/02, một tuần sau khi nhiều sư đoàn Trung Quốc tràn qua biên giới vào Việt Nam, và trước khi trận Lạng Sơn bắt đầu (ngày 27), Đặng công khai nói với quan chức châu Âu và Nhật Bản rằng Trung Quốc “sẽ rút quân trong khoảng 10 ngày, hoặc thêm đôi ba hôm nữa”.
Tuy báo Việt Nam gọi đây là chiến tranh xâm lược từ phía Trung Quốc, Bắc Kinh không hề có ý định chiếm đất.
Cuộc chiến 1979 có đạt được các mục tiêu?
Về quân sự, Trung Quốc đã không tiêu diệt được một sư đoàn quân chính quy nào của Việt Nam và còn bị tổn thất lớn.
Thất bại này được Đặng Tiểu Bình biến thành động cơ cải tổ Quân Giải phóng, hiện đại hóa các quân binh chủng, thanh lọc các tướng còn lưu luyến thuyết ‘chiến tranh nhân dân’ của Mao.
Về kinh tế, quân Trung Quốc đã đạt mục tiêu tàn phá tối đa cơ sở hạ tầng các tỉnh biên giới Việt Nam – 80% nhà cửa ở nhiều thị trấn bị tiêu hủy toàn bộ, theo một số tài liệu.
Về ngoại giao, Trung Quốc không khiến Hà Nội rút quân ngay khỏi Campuchia hoặc thay đổi đường lối đối ngoại.
Tuy thế, về chiến lược, Trung Quốc đã thách thức thành công liên minh Moscow – Hà Nội, và chứng minh cho mọi đồng minh của Liên Xô rằng Moscow sẽ không ứng cứu họ khi cần.
Hoa Quốc Phong đã hỉ hả nói Bắc Kinh dám “vuốt râu gấu Nga” mà không sao.
Vì sao đánh ngắn ngày?
Bản quyền hình ảnh Bettmann Image caption Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường sau thời Mao và làm thay đổi Trung Quốc
Dù không thành công về quân sự, Đặng Tiểu Bình được ca ngợi ở Trung Quốc về các dự báo chiến lược.
Chẳng hạn các phát biểu của tướng Triệu Nam Kỳ của Trung Quốc nhắc lại ngay từ năm 1975, sau Chiến tranh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình đã nói tình thế quốc tế không cho phép xảy ra Thế chiến 3 trong vòng 5 năm tiếp theo.
Đây là cơ hội cho Trung Quốc bỏ thuyết đấu tranh giai cấp sang xây dựng kinh tế, và tạo môi trường khu vực thuận lợi.
Tự tin rằng không đại cường nào thiết tha với cuộc thế chiến mới, trong khung thời gian 5 năm đó, Đặng đã tấn công Việt Nam.
Vì Moscow không đem quân giúp Hà Nội như đã hứa trong hiệp ước phòng thủ chung ký năm 1978, chữ tín của người Nga bị hạ bệ.
Điều này đã có tác động mạnh đến cả các quốc gia cộng sản Đông Âu thời gian sau đó.
Qua cuộc động binh đầu tiên từ cuộc chiến Trung – Ấn hai thập niên trước đó, Bắc Kinh báo hiệu cho Đông Nam Á sự trở lại với vị thế một cường quốc quân sự.
Cách dụng binh nay thay đổi
Nhưng di sản lớn nhất Đặng để lại từ cuộc chiến 1979 là cách dùng binh của Trung Quốc.
Theo Đặng, Trung Quốc chỉ có thể và chỉ nên dùng binh hạn chế về thời gian, nhanh gọn và không chiếm đất, giành dân, không kéo dài phức tạp.
Quân Giải phóng, theo quan điểm của Đặng, chỉ nên đánh ở biên giới gần.
Đặng ý thức được đường tiếp liệu trên bộ của Trung Quốc quá yếu kém, tốc độ di chuyển chậm.
Cuối năm 1978, có tướng Trung Quốc đã khoe chỉ cần một tuần là họ có thể chiếm được Hà Nội.
Nhưng trên thực tế, sau 18 ngày tấn công ồ ạt, chịu nhiều thương vong, Trung Quốc mới chỉ tiến tới Đồng Đăng.
Tuy thế, các bài học từ chiến tranh Trung – Việt đã làm thay đổi tư duy của quân đội Trung Quốc.
Bản quyền hình ảnh iStock Image caption Bộ đội Việt Nam trở về TP Hồ Chí Minh vào tháng 9/1989. Quan hệ Việt – Trung chỉ bình thường hóa sau khi HN rút quân khỏi Campuchia Bản quyền hình ảnh Sovfoto Image caption Quân TQ pháo kích sang Việt Nam – ảnh chụp đầu thập niên 1980
Các đánh giá nổi bật nhất về câu nói này đến từ Fareed Zakaria, Lý Quang Diệu và Michael Pillsbury.
Zakaria của CNN dịch câu này là “Hide brightness, nourish obscurity”, và chú ý về vế thứ hai “chăm sóc, nuôi dưỡng sự mờ tối”.
Lý Quang Diệu thì tin rằng Đặng muốn ‘Thao quang dưỡng hối’ trở thành chiến lược cho nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc.
Michael Pillsbury, chuyên gia chính trị thạo tiếng Trung, hiện tư vấn cho Donald Trump để đánh Trung Quốc bằng thương mại cho rằng khái niệm ‘dưỡng hối’, không còn được Tập áp dụng.
Ông tin rằng ‘Trung Quốc trỗi dậy hòa bình chỉ là ảo giác’ (China’s peaceful rise is a mirage) mà Washington nên tỉnh táo nhận ra.
Cũng có ý kiến nói Đặng không hề bảo Trung Quốc phải “chịu nhục” như Câu Tiễn, hoặc “lấy khiêm làm đức” như Lưu Bị.
Đặng muốn lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng cứ để mọi thứ mờ mờ tỏ tỏ là môi trường tốt nhất cho nước này.
Bản quyền hình ảnh Reuters Image caption Việc thay đổi điều lệ Đảng đưa ông Tập Cận Bình lên ngang hàng với Mao Trạch Đông, bỏ qua Đặng Tiểu Bình
Trong môi trường đó, tự tầm vóc vĩ đại và sức mạnh lên dần của Trung Quốc sẽ tạo thế mạnh điều chỉnh hành vi các nước khác.
Đặc biệt, Đặng Tiểu Bình đã để lại lời giải thích cho câu nói của mình, và điểm quan trọng thứ năm ông nhấn mạnh là “hòa bình, hòa hoãn với mọi quốc gia, không nhấn mạnh ý thức hệ của Đảng Cộng sản” (不再以意识形态来划线).
Nhưng lời khuyên này có vẻ như không còn được lắng nghe.
Thay vì giữ tình trạng mờ ảo lâu dài, Trung Quốc đặt ra các thời hạn chặt như ‘Made in China 2025’, hoàn tất Hiện đại hóa Xã hội chủ nghĩa 2035, và phục hưng dân tộc 2050.
Về quân sự, Trung Quốc không chỉ triển khai ở các vùng biển lân cận, mà vươn đi rất xa, sang tận Djibouti đóng căn cứ.
Về kinh tế, sáng kiến Vàng đai và Con đường nay không chỉ nhằm kết nối lục địa Âu – Á mà còn vươn sang châu Phi, xuống vùng Nam Thái Bình Dương.
Ý thức hệ cộng sản không giảm mà thành nội dung cho phát triển, như nhận định của Kerry Brown trong bài về năm ‘2018 không may mắn’ cho Trung Quốc.
Điều này tạo cảm giác cho dư luận Phương Tây rằng Trung Quốc muốn thay Liên Xô cũ làm đối thủ chính của họ.
Một Trung Quốc dùng đồng tiền và công nghệ tư bản để xây dựng một thứ chủ nghĩa xã hội kiểu riêng là điều khó chấp nhận với các nước tư bản.
Một tài liệu của Quốc hội Mỹ tin rằng vào năm 2050, sức mạnh quân sự Trung Quốc, nếu cứ tiến triển theo đà hiện nay, sẽ bằng Hoa Kỳ.
Để đáp lại, bên cạnh thương mại, việc chặn ‘chuyển giao công nghệ cao cấp’ mà Hoa Kỳ đề xướng còn nhằm hạn chế hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc.
Chiến tranh biên giới 1979 là trận đánh lớn cuối cùng trong thế kỷ 20 của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa.
Đó cũng là là trận chiến thứ ba bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, sau cuộc xâm nhập vào Himalaya năm 1962 đánh sang Ấn Độ, và Chiến tranh Triều Tiên 1951-53.
Sang thế kỷ 21, Trung Quốc chưa lâm chiến lần nào và cách xây dựng chiến lược quốc phòng đã thay đổi nhiều.
Nhưng cục diện khu vực và quan hệ Trung Quốc với các nước đối thủ: Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản, khối Nato cũng đã thay đổi.
Bất cứ một xung đột nào xảy ra tới đây sẽ là phép thử với chính sách của chủ tịch Tập, người đã bỏ lại phía sau các bài học chiến tranh của Đặng Tiểu Bình.