Khi xem xét và lý giải cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung trong bối cảnh trật tự thế giới mới, cần lưu ý mấy điểm cơ bản (làm hệ quy chiếu). Thứ nhất, chiến tranh thương mại chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”, nên xem xét nó trong một bối cảnh lớn hơn. Thứ hai, xung đột về thương mại thực chất phản ánh xung đột về cơ cấu và hệ thống, nên rất nan giải, không thể hóa giải trong vài tháng. Thứ ba, xung đột về thương mại gắn liền với xung đột về lợi ích chiến lược tại Biển Đông và tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Thứ tư, tuy người Mỹ phân hóa và chia rẽ sâu sắc, nhưng hầu như tất cả cùng đồng thuận và ủng hộ Trump chống Trung Quốc.
Tàu khu trục USS McCampbell của hải quân Mỹ. Ảnh: Wikipedia.
Năm 2019 có gì mới trong quan hệ Trung – Mỹ. Thực ra, nên vừa mừng vừa lo, vì cơ hội và rủi ro luôn đan xen nhau. Người khôn thường biến nguy thành cơ, còn người dại thường biến cơ thành nguy (vì ngộ nhận và nhầm lẫn). Trong mọi tình huống, phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết như điều kiện tiên quyết.
Ngày 7/1/2019, đàm phán thương mại Mỹ – Trung cấp Thứ trưởng bắt đầu tại Bắc Kinh. Đây là cuộc đàm phán chính thức đầu tiên năm 2019 và đến nay hai bên đã tiến hành các cuộc đàm phán ở cấp cao hơn tại Mỹ cũng như tại Trung Quốc nhưng vẫn chưa kết thúc được cuộc chiến thương mại giữa hai bên.
Trong khi hai bên đang tranh cãi nảy lửa trên bàn đàm phán về thương mại thì trên Biển Đông, Mỹ đã liên tục tổ chức các hoạt động FONOP, cụ thể: Cùng ngày (7/1/2019), Mỹ đã điều khu trục hạm USS McCampbell tuần tra trong khu vực 12 hải lý gần 3 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa là Tree Island (đảo Cây), Lincohn Island (đảo Linh Côn) và Woody Island (đảo Phú Lâm); ngày 11/2/2019, Hạm đội 7 của Mỹ đã điều hai tàu khu trục là USS Spruance và USS Preble tiến hành tuần tra tự do hàng hải, áp sát Đá Vành Khăn đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Hạm đội 7 Clay Doss nhấn mạnh hoạt động tuần tra lần này nhằm “thách thức các tuyên bố hàng hải vô lý” và gìn giữ quyền tiếp cận các tuyến đường hàng hải được quản lý bởi luật pháp quốc tế.
Đây có thể coi như là hành động để dẫn chứng quy luật “vừa đánh vừa đàm” và “ngoại giao pháo hạm” của Mỹ.
Trong khi Người phát ngôn của Hạm đội Thái Bình Dương tuyên bố Mỹ thực hiện “quyền tự do hàng hải”, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc gọi đây là một “hành động khiêu khích” của Mỹ, “vi phạm luật pháp của Trung Quốc và quốc tế”. Nếu các lần này Trung Quốc chỉ cảnh cáo mà không điều chiến hạm tới chặn đường như với USS Decatur (30/9/2018), thì chứng tỏ Bắc Kinh không muốn gây căng thẳng với Washington vào lúc này.
Dưới thời Trump, tần suất và tính chất FONOP được tăng cường, đến nay đã diễn ra 11 lần tuần tra FONOP tại Biển Đông. Ngoài Mỹ, đã có 8 nước đồng minh điều chiến hạm đến Biển Đông để tuần tra FONOP và tập trận (gồm Nhật, Ấn Độ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Canada).
Thực trạng Biển Đông
Biển Đông không chỉ là huyết mạch giao thông cho cả khu vực, mà còn giàu tài nguyên (dầu khí và hải sản). Tranh chấp tại Biển Đông chồng chéo phức tạp, không chỉ giữa các nước khu vực (về chủ quyền biển đảo), mà còn giữa các nước lớn (về lợi ích địa chiến lược).
Suốt mấy thập niên qua, Mỹ đã ngộ nhận về Trung Quốc, triển khai “can dự mang tính xây dựng” với ảo tưởng Trung Quốc “trỗi dậy hòa bình” như một mô hình “dân chủ hóa”. Nhưng kết cục Trung Quốc đã trở thành một quái vật (như lời Nixon). Nay người Mỹ tỉnh ngộ thì đã quá muộn, nên chính quyền Trump đang tìm cách lật ngược bàn cờ.
Khi thấy Trung Quốc lớn mạnh, Tập Cận Bình quyết định từ bỏ kế sách “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình, theo đuổi “Giấc mộng Trung Hoa” và kế hoạch “Made in China 2025”. Tại Biển Đông, Trung Quốc áp đặt “đường lưỡi bò” để bành trướng và bắt nạt các nước láng giềng, không cho họ khai thác dầu khí và đánh cá tại vùng biển của mình.
Đồng thời Trung Quốc triển khai chương trình “Vành đai và Con đường” để thao túng các nước nghèo bằng “bẫy nợ”, mà Thủ tướng Malaysia Mahathir gọi là “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”. Trung Quốc đã từng bước kiểm soát Biển Đông theo kế sách “tầm ăn dâu” như “việc đã rồi”, và tìm mọi cách gạt Mỹ ra khỏi khu vực Biển Đông.
Có thể nói chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông khá thành công. Trung Quốc từ chỗ không có gì tại Biển Đông, nay họ đã chiếm trọn Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974 và một số bãi đá tại Trường Sa cũng của Việt Nam từ năm 1988. Trung Quốc đã áp đặt “đường lưỡi bò”, bất chấp luật quốc tế (UNCLOS và phán quyết của PCA). Trong mấy năm qua, Trung Quốc đã ráo riết bồi đắp và quân sự hóa các đảo họ chiếm được thành các cứ điểm quân sự mạnh để kiểm soát Biển Đông như cái ao riêng của họ.
Chính quyền Trump đang tìm cách lật ngược thế cờ bằng cuộc chiến thương mại, có thể trở thành một cuộc chiến tổng lực về kinh tế. Cách đây mấy tháng (30/9/2018) Mỹ đã ký với Mexico và Canada Hiệp định tự do thương mại USMCA (thay thế NAFTA). Trong đó, điều 32.10 là “liều thuốc độc” nhằm cô lập Trung Quốc (có nền kinh tế “phi thị trường”). Mỹ sẽ cài điều khoản “thuốc độc” này vào các hiệp định thương mại sẽ ký với các đối tác khác (như Nhật và Tây Âu).
Các bước ngoặt tại Biển Đông
Tháng 1/1974, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, nhưng Mỹ vì bắt tay với Trung Quốc đã không can thiệp để bảo vệ đồng minh. Tháng 3/1988, Trung Quốc chiếm mấy đảo Trường Sa, nhưng Liên Xô (đóng quân tại Cam Ranh) đã không can thiệp để bảo vệ đồng minh. Ngày 8/4/2012, Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines, nhưng Mỹ (dưới thời Obama) cũng không can thiệp để bảo vệ đồng minh. Đó là vài dẫn chứng lịch sử.
Có lẽ vì vậy mà Trung Quốc đã dám đưa giàn khoan HD 981 đến vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông (5/2014) để khoan dầu bất hợp pháp, gây ra cuộc khủng hoảng tại Biển Đông.
Gần đây, trong khi trả lời phỏng vấn chương trình Hugh Hewitt (11/10/2018), cố vấn An ninh Quốc gia John Bolton đã tuyên bố “Mỹ sẽ tăng cường khai thác tài nguyên tại Biển Đông dù Trung Quốc có hợp tác hay không. Họ nên biết là không thể làm chuyện đã rồi. Đây không phải là một tỉnh của Trung Quốc, và không bao giờ”. Tuy Bolton không giải thích cụ thể, nhưng chắc mọi người đều hiểu Bolton đang muốn nói tới điều gì tại Biển Đông.
Ngày 10/10/2018, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu với tỷ lệ áp đảo (87/10) thông qua Đạo luật Chuẩn chi Quốc phòng NDAA (National Defense Authorization Act), với kinh phí $716 tỷ (cho năm 2019), so với $640 tỷ (cho năm 2018). Với ngân sách đó, chính quyền Trump hy vọng có đủ nguồn lực để đầu tư vào các chương trình quốc phòng mới, như phát triển năng lực chiến tranh không gian (space warfare), tên lửa tầm trung, máy bay và tàu chiến thế hệ mới, để tăng cường sức mạnh răn đe nhằm đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Gần đây nhất, ngày 1/3/2019 tại Manila, Ngoại trưởng Mike Pompeo khẳng định Mỹ sẽ bảo vệ Philippines nếu xảy ra “tấn công vũ trang” trên Biển Đông, lên án các hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc trong khu vực. “Các hành động cải tạo đảo và quân sự của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông đang đe dọa chủ quyền, an ninh và đời sống kinh tế của các bạn, cũng như của Mỹ”. Ông chỉ trích các hoạt động hung hăng của Trung Quốc trên vùng biển khu vực là mối đe dọa đối với các bên tranh chấp tại Đông Nam Á và những nước láng giềng khác. “Biển Đông là một phần của Thái Bình Dương. Mọi cuộc tấn công vũ trang chống lại lực lượng Philippines, tàu dân sự hoặc máy bay trên Biển Đông đều sẽ kích hoạt các nghĩa vụ phòng thủ chung, được nêu trong Khoản 4 của Hiệp ước Phòng thủ chung của hai nước”, ông Pompeo khẳng định.
Hiệp ước ký kết năm 1951 quy định Mỹ và Philippines sẽ hỗ trợ nhau trong trường hợp xảy ra “tấn công vũ trang trên Thái Bình Dương”. Đây là lần đầu tiên một quan chức cấp cao Mỹ công khai đề cập các cam kết bảo vệ đồng minh Philippines trong vấn đề Biển Đông.
Bàn cờ mới, luật chơi mới
Trong mấy năm qua, tình hình Biển Đông có lúc nóng lên làm quan hệ Trung-Việt khủng hoảng khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông (5/2014), và ráo riết bồi đắp và quân sự hóa các đảo nhân tạo tại Biển Đông với quy mô lớn. Nhưng cũng có lúc Biển Đông tạm lắng xuống một thời gian, như khoảng lặng trước cơn bão mới. Nhưng chưa bao giờ Trung Quốc từ bỏ tham vọng kiểm soát Biển Đông (như cái ao của mình). Tuyên bố đàm phán trong ba năm về COC của Trung Quốc chỉ là chiến thuật hoãn binh nhằm xoa dịu các nước ASEAN.
Ngày 31/12/2018, Trump đã ký sắc lệnh ban hành “Đạo luật Sáng kiến Tái bảo đảm châu Á” (ARIA), sau khi được Hạ viện thông qua với số phiếu áp đảo, và được Thượng viện thông qua với số phiếu tuyệt đối 100%. Đây là một đồng thuận cao không chỉ giữa hai đảng, mà còn giữa Chính quyền và Quốc hội, với cam kết $1,5 tỷ (2019-2023) cho khu vực, ưu tiên hỗ trợ đồng minh (ASEAN) và “Bộ tứ” (Quad) gồm Mỹ – Nhật – Úc – Ấn (coi Ấn Độ là “đối tác quốc phòng chính”), và tăng cường hỗ trợ Đài Loan.
ARIA coi trọng hơn các biện pháp chính trị, ngoại giao và cam kết tài chính cụ thể, để tăng cường mạng lưới đồng minh và đối tác (cả song phương và đa phương) trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trong khi tranh chấp Mỹ-Trung có thể diễn biến khó lường, ARIA có tầm nhìn chiến lược lâu dài và ổn định. Dù ai làm Tổng thống Mỹ cũng phải tuân thủ luật mà Quốc hội đã ban hành.
ARIA là một “thông điệp kép” cảnh báo Trung Quốc, tiếp theo sự kiện Quốc hội thông qua dự luật CAATSA (Countering America’s Adversaries Through Sanctions Act, 8/2017), và dự luật BUILD Act (Better Utilization of Investment Leading to Development, 10/2018), lập ra quỹ phát triển quốc tế USIDFC (US International Development Finance Corporation). Quỹ USIDFC được Mỹ lập ra để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhằm đối trọng lại sáng kiến BRI và AIIB, để giúp các nước tránh “ngoại giao bẫy nợ” của Trung Quốc.
Tuy còn hơi sớm để xác định liệu diễn biến và hệ quả của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung có làm thay đổi bàn cờ Biển Đông hay không, nhưng chắc chắn thế và lực của Trung Quốc năm 2019 sẽ không còn như năm 2018. Nếu chiến tranh thương mại tiếp tục leo thang như Trump đe dọa, Trung Quốc có thể mắc kẹt trong thế lưỡng nan và lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính. Nguồn lực của Trung Quốc tuy rất lớn nhưng không phải vô tận và những giới hạn quyền lực của họ đang bộc lộ rõ do chiến tranh thương mại. Kết cục là Trung Quốc có thể sẽ thiếu hụt nguồn lực cho các chương trình địa chiến lược đầy tham vọng của mình như Sáng kiến Vành đai và Con đường hay quá trình quân sự hóa Biển Đông…