Tạp chí khoa học quốc tế Nature (28/3) công bố báo cáo đưa ra các bằng chứng về sự biến đổi môi trường do hoạt động xây dựng đảo của Trung Quốc gây ra ở Biển Đông.
Báo cáo đánh giá các tác động môi trường của hoạt động cải tạo đảo từ việc nạo vét đáy biển và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thực vật, động vật biển và cả hệ sinh thái. Báo cáo cho biết mức độ hủy hoại là rất lớn bởi các rạn san hô ở Biển Đông là nơi tập trung sự đa dạng sinh học lớn nhất Trái Đất. Thông qua việc sử dụng hình ảnh vệ tinh, các nhà nghiên cứu đã theo dõi hoạt động xây dựng ở đá Vành Khăn, cho thấy mức độ tán xạ ở vùng biển quanh cấu trúc này lên tới 350%, lượng phù sa vượt quá 250km2 trong thời gian cải tạo đảo và diện tích khu vực bị tác động bởi việc nạo vét vượt quá 1.200km2.
Báo cáo cho biết, hoạt động nạo vét dẫn đến việc môi trường sống tự nhiên bị che phủ và các rạn san hô bị trầm tích hóa, khiến cho nguồn lực sinh học của khu vực bị suy giảm. Báo cáo khẳng định, theo các chuyên gia, hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc là hoạt động làm xói mòn các rạn san hô nhanh nhất trong lịch sử loài người. Hoạt động này không chỉ phá hủy các rạn san hô, tác động đến các khu vực xung quanh mà còn làm giảm trữ lượng các đàn cá cũng như giảm khả năng giải độc chất thải của Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, các cấu trúc nhân tạo như sân bay và bản thân các hòn đảo nhân tạo có thể phá hoại môi trường sống của san hô, dẫn đến sự tuyệt chủng của một số loài cá, động vật không xương sống và một số thành phần quan trọng của hệ sinh thái bản địa.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, báo cáo này sẽ đóng vai trò là cơ sở để các cơ quan liên chính phủ đánh giá mức độ thiệt hại, từ đó có thể đưa ra các chính sách hạn chế cải tạo đảo cũng như yêu cầu bồi thường đối với những thiệt hại này.
Trước đó, Bộ Tài nguyên Trung Quốc (1/1) thông báo Bắc Kinh đã tiến hành các cuộc khảo sát để xác định thêm các khu vực nơi san hô sẽ được bảo vệ và khôi phục sử dụng phương pháp “khôi phục tự nhiên” để giúp các rạn san hô tự hồi phục, được bổ trợ bằng các phương pháp nhân tạo, và các kĩ thuật được phát triển đặc biệt cho Trường Sa. Theo đó, Trung Quốc đã xây dựng các cơ sở bảo vệ và khôi phục san hô trên các bãi Đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn, đồng thời khẳng định hoạt động trên bước đầu đã giúp khôi phục hệ sinh thái ở các vùng biển xung quanh Đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn.
Trên thực tế, từ năm 2013, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải tạo phi pháp quy mô lớn 7 bãi đá ngầm Chữ Thập, Ga Ven, Châu Viên, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Xu Bi (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) thành các đảo nhân tạo. Đến giữa năm 2015, Trung Quốc tiếp tục tiến hành cải tạo phi pháp đảo Phú Lâm, Duy Mộng và Quang Hòa (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép năm 1956 và 1974). Trong quá trình cải tạo phi pháp, Trung Quốc đã sử dụng các máy hút bùn công suất lớn, nạo vét các rặng san hô xung quanh để tạo thành các đảo nhân tạo. Sau đó, Trung Quốc đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự và dân sự trên các đảo nhân tạo, biến khu vực này thành những căn cứ quân sự kiên cố của Bắc Kinh. Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc đã phá hủy gần như toàn bộ môi trường sinh thái xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Theo tính toán của các chuyên gia, Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160km2 rạn san hô và phá hủy gần 60km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Trong đó hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo trái phép của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 14/15 km2; hoạt động nạo vét của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 39/40 km2; hoạt động nạo vét làm bến đỗ, kênh rạch cho tàu thuyền đi lại của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 2/3 km2; hoạt động khai thác trai khổng lồ của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 104/104 km2 san hô. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Theo Giáo sư Edgado Gomez (Philippines) ước tính rằng với mức độ phá hủy san hô hiện tại sẽ khiến các quốc gia ven biển trong khu vực Đông Nam Á phải gánh chịu thiệt hại 5,7 tỷ USD/năm, gây tác động tiêu cực xuyên biên giới.
Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng của một số loài. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C. (Mỹ) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp.
Ngoài ra, cùng với việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và đưa lượng lớn binh lính ra đồn trú phi pháp ở Biển Đông cũng gián tiếp tác động, phá hủy môi trường sinh thái. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong quá trình Trung Quốc đưa quân ra đồn trú, sinh hoạt đã thải các kim loại nặng, chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) và nước thải có thể chứa các kim loại nặng hoặc chất ô nhiễm hữu cơ bền trực tiếp ra biển mà không được xử lý gây những tác động rất nghiêm trọng tới môi trường và các hệ sinh thái biển. Không những vậy, việc xây dựng các công trình phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa của Trung Quốc cũng làm thay đổi trường sóng và dòng chảy tại các khu vực biển gần bờ, tác động xấu tới hệ sinh thái biển cũng như làm thay đổi điều kiện đáy biển và cán cân bùn cát, trực tiếp phá hủy hệ sinh thái biển.
Theo đánh giá của giới khoa học thì các rạn san hô tại khu vực Trường Sa tương đối nhỏ so với các hệ san hô lớn khác trên Trái Đất; song rất ít khả năng phục hồi được rạn san hô ở khu vực Trường Sa. San hô ở Trường Sa đã được hình thành cả trăm triệu năm và sự phát triển của san hô rất chậm nên khó có khả năng phục hồi được trong thời gian ngắn, mà có khi cần đến hàng nghìn năm mới khôi phục được phần nào. Trong khi đó, theo nghiên cứu của Đại học British Columbia (Canada) vào năm 2015 cho thấy hiện nay khoảng 20% số đàn cá trong Biển Đông đang phục hồi, 50% số đàn cá đang bị khai thác ở mức đe dọa suy thoái và 30% số đàn cá đã bị khai thác và suy thoái tới mức gần như không còn khả năng phục hồi. Nguồn hải sản không có khả năng phục hồi hoặc phục hồi chậm chủ yếu là do hoạt động cải tạo phi pháp, phá hủy môi trường sinh thái của Trung Quốc khiến các loại sinh vật mất môi trường sống, đẻ trứng và nuôi con non. Ngoài ra việc Chính phủ Trung Quốc không kiểm soát, quản lý ngư dân, để người dân khai thác quá mức, khai thác bất hợp pháp và sử dụng phương pháp đánh bắt mang tính chất hủy diệt (ngư dân đã dùng các phương tiện đánh bắt có tính hủy diệt như lưới mắt nhỏ, giã cào, điện, đèn công suất cao, thuốc nổ, chất độc xyanua… ) khiến nguồn cá và các sinh vật khác, đặc biệt là những sinh vật có giá trị kinh tế cao (rùa biển, trai biển…) không có khả năng phục hội.
Nhìn chung, với quy mô và mức độ tàn phá môi trường sinh thái ở Biển Đông như Trung Quốc đã, đang làm khiến hệ sinh thái trong khu vực ít có khả năng hồi phục một cách nhanh chóng. Theo dự đoán của giới chuyên gia, môi trường sinh thái ở Biển Đông cần hàng 100 năm nữa mới có thể hồi phục lại.