Thursday, November 14, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaĐề xuất cơ chế hợp tác trên Biển Đông: Cách nhìn và...

Đề xuất cơ chế hợp tác trên Biển Đông: Cách nhìn và đánh giá phiến diện từ TQ

Giới chuyên gia, học giả và các viện nghiên cứu Trung Quốc thường đưa ra cách đánh giá “khác người” về vấn đề Biển Đông để biện hộ cho lập luận yêu sách chủ quyền phi pháp trong khu vực, cũng như bảo vệ các hành vi phi pháp của nước này ở Biển Đông.

Theo giới học giả Trung Quốc, Biển Đông là biển nửa kín, theo Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS), khi sử dụng và thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ mà UNCLOS quy định, nước ven biển kín hoặc biển nửa kín phải hợp tác với nhau. Thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước ven biển Biển Đông, xây dựng Biển Đông thành biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác, không những là nghĩa vụ thực hiện UNCLOS và Chương trình nghị sự phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy tiến trình xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN. Hiện nay, tình hình Biển Đông tổng thể ổn định, thúc đẩy hợp tác thiết thực trên biển là đúng thời điểm, phải trên cơ sở hợp tác hiện nay, thảo luận tiến trình xây dựng cơ chế hóa của hợp tác, làm cho sự hợp tác liên quan được ổn định.

Về tiến triển của hợp tác ở Biển Đông

Nhiều năm qua, các nước trong khu vực từng tiến hành thử nghiệm tích cực đối với việc thúc đẩy hợp tác Biển Đông, đặc biệt là bố trí cơ chế hợp tác. Ngay từ năm 1990, Indonesia đã tổ chức Hội thảo xử lý xung đột tiềm tàng trên Biển Đông. Cơ chế này là diễn đàn đối thoại khu vực không chính thức, các thành viên chủ yếu của cơ chế này là các nước và khu vực xung quanh Biển Đông (ban đầu cũng bao gồm các nước như Canada, Mỹ, Australia, New Zealand…), với mục đích là tìm cách hiệp thương đối thoại trong vấn đề Biển Đông và thúc đẩy xây dựng lòng tin ở khu vực Biển Đông. Trong 4 hạng mục mà Hội thảo xử lý xung đột tiềm tàng trên Biển Đông tiến hành khi đó, Trung Quốc đã chủ đạo 2 hạng mục – hạng mục thông tin và mạng lưới kho số liệu ở Biển Đông, hạng mục mạng lưới giáo dục và giao lưu trên biển ở Đông Nam Á, hai hạng mục còn lại là hạng mục đào tạo lực lượng thực thi pháp luật trên biển (Malaysia thực hiện), hạng mục sự thay đổi của thủy triều và mực nước biển cũng như ảnh hưởng đối với môi trường ven biển Biển Đông (Indonesia thực hiện). Từ khi bước vào thế kỷ 21 đến nay, ảnh hưởng của cơ chế này suy yếu, xuất hiện cục diện khó có thể tiếp tục.

Năm 2011, Trung Quốc và các nước ASEAN thông qua Bản quy tắc hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Trong cơ chế của nhóm công tác chung Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC, Trung Quốc tích cực thúc đẩy việc thành lập Ủy ban nghiên cứu khoa học và kỹ thuật bảo vệ môi trường biển, đề xuất 6 hạng mục hợp tác, thúc đẩy hợp tác thiết thực với các nước ASEAN trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, xây dựng năng lực… Một số nước ASEAN đã triển khai hợp tác đa phương trên biển. Ví dụ như tháng 6/2017, Indonesia, Malaysia và Philippines đã khởi động tuần tra chung trên biển ở vùng biển gần Tarakan thuộc tỉnh Bắc Kalimantan, để tăng cường năng lực hợp tác và tấn công khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia trong khu vực.

Ngoài ra, tuy Cơ quan điều phối các vùng biển Đông Á (COBSEA) và Đối tác về quản lý môi trường các biển Đông Á (PEMSEA) không trực tiếp liên quan đến Biển Đông, nhưng có ảnh hưởng nhất định đối với hợp tác Biển Đông. COBSEA được thành lập từ sự ủng hộ ngân sách của Kế hoạch hành động bảo hộ và phát triển bền vững biển Đông Á – một trong những dự án biển của Chương trình môi trường Liên hợp quốc (UNEP). Kế hoạch hành động này do Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan thông qua năm 1981, đồng thời năm 1994 có thêm Australia,Trung Quốc, Campuchia, Hàn Quốc và Việt Nam tham gia, mục tiêu chủ yếu là hoạch định chiến lược bảo vệ môi trường toàn diện cho vùng biển Đông Á, thúc đẩy phát triển bền vững. Dưới khuôn khổ COBSEA có một dự án (do Quỹ môi trường toàn cầu tài trợ) bao gồm các nước như Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Thái Lan…, đó là dự án “ngăn ngừa xu hướng suy thoái môi trường Biển Đông và Vịnh Thái Lan”.

Trung Quốc luôn “tích cực” thúc đẩy hợp tác thiết thực với các nước ASEAN ở Biển Đông. Trải qua nhiều năm phát triển, hợp tác trên biển Trung Quốc thúc đẩy cả hợp tác song phương lẫn đa phương, triển khai trên nhiều lĩnh vực, lĩnh vự hợp tác cũng dần mở rộng đến hợp tác kinh tế biển, nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường biển, khảo sát chung trên biển, trao đổi kết nối trên biển, cùng xây dựng phòng thí nghiệm chung về biển… Trung Quốc đã ký hiệp định hợp tác khoa học và kỹ thuật biển với Malaysia năm 2009, nội dung đã bao hàm nhiều lĩnh vực như chính sách biển, quản lý biển, bảo vệ môi trường sinh thái biển, nghiên cứu khoa học và điều tra biển, phòng chống thiên tai trên biển, trao đổi tài liệu về biển… Trung Quốc đã ký Bản ghi nhớ hợp tác trên biển với Indonesia, đồng thời thành lập quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc – Indonesia, Trung Quốc góp 1 tỷ NDT (gần 160 triệu USD) làm vốn khởi động, hỗ trợ hai bên triển khai hợp tác thiết thực trên biển. Cùng năm, Trung Quốc và Indonesia cùng xây dựng trạm sinh thái biển chung Bitung, tiến hành điều tra và nghiên cứu đối với các hệ sinh thái điển hình như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển và sự đa dạng hóa sinh vật biển như cá san hô, sinh vật phù du, sinh vật ở tầng đáy…, cũng như các thông số liên quan đến nước biển và trầm tích… Năm 2013, Trung Quốc và Việt Nam thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển, tăng cường mức độ làm việc của nhóm công tác ở vùng biển bên ngoài Vịnh Bắc Bộ và nhóm công tác chuyên gia hợp tác ở vùng biển ít nhạy cảm trên biển. Tháng 10 cùng năm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đến thăm Brunei, hai bên đã ký các văn kiện hợp tác song phương như Bản ghi nhớ về hợp tác trên biển, Thỏa thuận giữa Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc và Công ty dầu khí quốc gia Brunei về việc thành lập công ty liên doanh trên lĩnh vực dịch vụ giếng dầu… Sau nhiều năm đình trệ, hợp tác trên biển giữa Trung Quốc và Philippines bắt đầu được tái khởi động. Ngày 25/7/2017, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đến thăm Philippines, tuyên bố hai bên đồng ý hợp tác khai thác năng lượng trên vùng biển tranh chấp ở Biển Đông. ngày 13/2/2018, Hội nghị lần thứ 2 cơ chế tham vấn song phương giữa Trung Quốc và Philippines về vấn đề Biển Đông được tổ chức tại Manila, Philippines, hai bên đồng ý tiếp tục bàn bạc để xây dựng lòng tin, đạt được sự nhất trí về việc khởi động nhóm công tác kỹ thuật như nghề cá, dầu khí, nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường biển, an ninh chính trị… dưới khuôn khổ của cơ chế này, đã xác nhận một loạt sáng kiến hợp tác tiềm tàng.

Trung Quốc cũng “tích cực” khởi xướng và thúc đẩy hợp tác khu vực Biển Đông. Năm 2005, 3 công ty dầu khí của Trung Quốc, Philippines, Việt Nam ký Thỏa thuận cùng khảo sát địa chấn ngoài khơi Biển Đông, sau đó vì bị phe đối lập Philippines ngăn cản, nên cuối năm 2008 thỏa thuận này chưa được Tòa án tối cao Philippines thông qua, đến nay vẫn chưa được giải quyết. Năm 2011, Trung Quốc thiết lập Quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc – ASEAN, đầu tư hơn 3 tỷ NDT (khoảng 470 triệu USD), dùng để khảo sát khoa học ở Biển Đông, bảo vệ môi trường, an ninh hàng hải và tìm kiếm cứu nạn, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia… Năm 2014, Trung Quốc và ASEAN ký Bàn ghi nhớ về hợp tác quản lý thảm họa, đồng thời thúc đẩy Diễn đàn khu vực ASEAN thông qua Tuyên bố về tăng cường điều phối và hợp tác tìm kiếm cứu nạn trên biển và trên không. Tháng 4/2016, tại cuộc họp lần thứ 11 các quan chức cấp cao Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC, Trung Quốc đề xuất nhanh chóng xây dựng ủy ban hợp tác về an ninh hàng hải và tìm kiếm cứu nạn, nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường biển, tấn công tội phạm xuyên quốc gia trên biển. Tháng 8/2016, cuộc họp lần thứ 13 các quan chức cấp cao Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC đã xem xét và thông qua 2 văn kiện là Phương châm chỉ đạo lập đường dây nóng giữa các quan chức ngoại giao cấp cao Trung Quốc và ASEAN về ứng phó các tình huống khẩn cấp trên biển và áp dụng Bộ quy tắc tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) ở Biển Đông. Cuối tháng 10/2017, tổ chức thành công cuộc diễn tập tìm kiếm cứu nạn quy mô lớn lần đầu tiên giữa Trung Quốc và ASEAN. Tháng 11/2017, các nước ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố về thập kỷ bảo vệ môi trường bờ biển và trên biển ở Biển Đông (2017 – 2027), tuyên bố này nhấn mạnh các bên liên quan sẽ trên cơ sở không làm tổn hại lập trường nước khác nghiên cứu hoặc tiến hành hoạt động hợp tác liên quan.

Trong quá trình xây dựng cơ chế, dưới các cơ chế như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị cấp cao Đông Á, khuôn khổ hợp tác Trung Quốc – ASEAN… Trung Quốc và ASEAN đã thiết lập các cơ chế hợp tác như diễn đàn kinh tế xanh, hội thảo bảo vệ môi trường biển, bàn việc công việc biển, diễn đàn hợp tác biển, trung tâm hợp tác biển Trung Quốc – ASEAN, diễn đàn hợp tác biển Đông Á…

Về tổng thể, tuy hợp tác khu vực Biển Đông có nhiều lĩnh vực để nghiên cứu thảo luận, nhưng lại tương đối ít lĩnh vực thiết thực và cụ thể, hợp tác nhiều trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như môi trường, khảo sát khoa học, tìm kiếm cứu nạn…, nhưng lại ít hợp tác trên lĩnh vực có nhiều nhạy cảm như tài nguyên, chính trị, an ninh…, có nhiều sự hợp tác song phương hoặc đa phương, nhưng lại ít sự hợp tác giữa các nước ven biển Biển Đông, đặc biệt là cơ chế hợp tác tập trung các nước ven biển Ham Hải dường như không tồn tại. Vì vậy, trong quá trình thúc đẩy hợp tác Biển Đông, ngoài mở rộng lĩnh vực, phải đặc biệt coi trọng xây dựng cơ chế hóa hợp tác giữa các nước ven biển Biển Đông.

Xu hướng hợp tác ở Biển Đông

Học giả Trung Quốc xuyên tạc cho rằng sau vụ Tòa Trọng tài về Biển Đông, tình hình Biển Đông tổng thể ổn định, mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông trong ASEAN như Philippines… cũng hòa dịu, điều này đã đem đến “cơ hội mới cho các nước ven biển Biển Đông triển khai hợp tác”. Theo số học giả trên: (1) Bầu không khí hợp tác tốt chưa từng có từ trước đến nay. Cùng với vụ Tòa Trọng tài về Biển Đông do Philippines đưa ra đã kết thúc, các nước liên quan bắt đầu trở về lý trí, có ý điều chỉnh chính sách, làm dịu tình hình. Sự thay đổi kịch tính nhất là sự thay đổi của quan hệ Trung Quốc – Philippines năm 2016. Từ khi lên cầm quyền đến nay, Tổng thống Philippines Duterte lựa chọn gạt phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông sang một bên, chuyển sang thể hiện sự hữu nghị với Trung Quốc, tìm cách phát triển quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Tháng 10/2016, Duterte đến thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước đồng ý khôi phục toàn diện sự trao đổi giữa hai nước, trở về quỹ đạio hiệp thương đối thoại, xử lý ổn thỏa vấn đề Biển Đông. Với đại diện là Philippines, phần lớn các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đều tích cực trở lại kênh đối thoại và hiệp thương để giải quyết tranh chấp, tạo bầu không khí tốt đẹp cho việc thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác thiết thực giữa các nước ven biển Biển Đông. (2) Đàm phán Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) được thúc đẩy ổn định, đem đến bảo đảm quy tắc và trật tự cho sự hợp tác thiết thực ở Biển Đông. Tháng 5/2017, cuộc họp lần thứ 14 các quan chức cao cấp Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC đã thông qua dự thảo khung COC. Được coi là thành quả mang tính giai đoạn, dự thảo khung COC bao gồm các yếu tố như nguyên tắc, mục tiêu, cam kết cơ bản… đã đặt nền tảng vững chắc cho đàm phán COC. Tháng 8/2017, Hội nghị Ngoại trưởng Trung Quốc – ASEAN được tổ chức tại Philippines đã thông qua dự thảo khung COC. Tháng 11/2017, việc Thủ tướng Lý Khắc Cường đề xuất Trung Quốc và ASEAN chính thức khởi động đàm phán COC khi tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN + 3 (với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) lần thứ 20, nhận được sự hoan nghênh của đông đảo các nước ASEAN. Tuy COC không liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp phân định biên giới biển, nhưng có thể tìm kiếm sự đột phá trên lĩnh vực xây dựng lòng tin trên biên giới biển, nhưng có thể tìm kiếm sự đột phá trên lĩnh vực xây dựng lòng tin trên biển, cung cấp sự bố trí mang tính cơ chế mà các bên đều có thể chấp nhận về quản lý khủng hoảng, điều này chắc chắn có lợi cho việc bảo đảm hòa bình ổn định và lâu dài của Biển Đông, trở thành cơ sở bảo đảm hòa bình của Biển Đông. Đàm phán COC là quá trình các bên liên tục thu hẹp bất đồng, xây dựng lòng tin, nó sẽ đóng vai trò thúc đẩy tích cực đối với hợp tác Biển Đông. (4) Quá trình xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 sẽ thúc đẩy hợp tác Biển Đông. Tháng 10/2013, khi Chủ tịch Tập Cận Bình tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước đến Indonesia đã đưa sáng kiến xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21 và Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN. Ý tưởng hợp tác trên biển xây dựng “Vành đai và Con đường” được đưa ra tháng 6/2017 xác định rõ trong tương lai sẽ thúc đẩy kết nối ngành nghề và hợp tác năng lực sản xuất, khuyến khích triển khai các hoạt động như dịch vụ lợi ích chung trên biển, nghiên cứu học thuật, giao lưu văn hóa, hợp tác khoa học công nghệ… với các tổ chức phi chính phủ ở các nước dọc tuyến. Quỹ hợp tác Trung Quốc – ASEAN, Quỹ Con đường tơ lụa… do Trung Quốc thiết lập sẽ cung cấp nguồn vốn cho các dự án hợp tác trên biển quan trọng. Có thể dự đoán cùng với sự thúc đẩy của Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21, sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ven biển Biển Đông trong ASEAN trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, bảo vệ môi trường sẽ nhận được sự hỗ trợ chính sáhc và nguồn vốn nhiều hơn. (5) Thành quả nghiên cứu của các tổ chức và cơ quan tư vấn các nước sẽ cung cấp sự hỗ trợ năng lực và chuẩn bị dư luận cho hợp tác Biển Đông. Nhiều năm qua, thành quả nghiên cứu của trong và ngoài nước Trung Quốc về hợp tác Biển Đông rất phong phú: Một là tập trung nghiên cứu đối với các lĩnh vực hợp tác ở Biển Đông, bao gồm các lĩnh vực như quản lý nghề cá, bảo vệ môi trường sinh thái, hợp tác an ninh phi truyền thống như chống cướp biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển…; hai là đề xuất Biển Đông có thể làm theo kinh nghiệm hợp tác của các vùng biển khác trên thế giới. Về hợp tác nghề cá có thể làm theo Địa Trung Hải, vùng biển Caribe, về xây dựng cơ chế hợp tác có thể làm theo mô hình của Hội đồng Bắc Cực hoặc Hiệp ước Nam Cực. Các nghiên cứu liên quan đã tiến hành nghiên cứu và phân tích tính khả thi cho hợp tác Biển Đông, rất nhiều thành quả có thể chuyển hóa thành phương án thực hiện hợp tác. Ngoài ra, các học giả trong và ngoài nước Trung Quốc đều đã nêu rõ nghĩa vụ của UNCLOS là để các nước ven bờ Biển Đông tiến hành nghĩa vụ hợp tác, đồng thời từ các góc độ như bảo vệ tài nguyên môi trường… nhấn mạnh tính cấp bách của việc thúc đẩy hợp tác. Những nghiên cứu này đóng vai trò dẫn dắt dư luận có lợi cho việc hội tụ nhận thức chung hợp tác giữa các giới.

Khó khăn trong việc thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông

Học giả Trung Quốc cố tình biện minh, lảng tránh hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông gây đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực, đổ lỗi cho các bên liên quan là “người gây ra căng thẳng” ở Biển Đông, ngang nhiên cho rằng việc triển khai hợp tác Biển Đông có rất nhiều điều kiện có lợi, nhưng cũng đối diện với một số thách thức: (1) Sự phức tạp vốn có của tranh chấp Biển Đông đã cản trở động lực của hợp tác. Tránh chấp Biển Đông liên quan đến nhiều nước, vừa có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, vừa có tranh cãi phân định biên giới giữa các nước trên một số vùng biển, vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông rất phức tạp và nhạy cảm, khó có thể giải quyết triệt để trong tương lai. Hiện nay, hợp tác khu vực Biển Đông có bầu không khí tốt đẹp, nhưng các nước đều không thay đổi chủ trương quyền lợi của mình. Sự hợp tác trên vùng biển tranh chấp Biển Đông chắc chắn liên quan đến vấn đề tỷ lệ phân phối quyền lợi (có sự hợp tác còn liên quan đến luật pháp trong nước), đồng thời tinh thần dân tộc chủ nghĩa và dư luận của các nước có thể sẽ ảnh hưởng đến việc đạt được thỏa thuận hợp tác. (2) Vấn đề thiếu hụt lòng tin giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực khó có thể xóa bỏ được trong ngắn hạn. Do Trung Quốc tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và phân định ranh giới trên biển với các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông như Việt Nam, Philippines…, các vụ đối đầu trên biển từng xảy ra khiến cho các bên liên quan đến tranh chấp có tâm lý cảnh giác, sự tin cậy lẫn nhau tương đối thấp. Cùng với sự trỗi dậy nhanh chóng, ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông liên tục tăng lên, một số nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông sợ Trung Quốc nắm quyền phát ngôn trong xây dựng trật tự khu vực, sự lo lắng của các nước này tăng lên rõ rệt, sự thiếu hụt lòng tin đói với Trung Quốc không ngừng gia tăng, tinh thần dân tộc chủ nghĩa “quan ngại Trung Quốc” ở các nước này cũng tăng. Một mặt các nước xung quanh Biển Đông hy vọng dựa vào tiến trình “Vành đai và Con đường” để thu hút đầu tư và viện trợ nhiều hơn từ Trung Quốc, dựa vào sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc; mặt khác lại lo ngại phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế sẽ làm cho các nước này mất đi quyền chủ động trong các vấn đề như an ninh chính trị…, vì vậy lôi kéo các nước lớn bên ngoài để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc. Vấn đề thiếu hụt lòng tin tồn tại lâu nay này đã hạn chế việc thúc đẩy hợp tác Biển Đông đi vào chiều sâu. (3) Sự lôi kéo và gây chia rẽ của các nước lớn bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản… đối với các nước tuyên bố chủ quyền. Mỹ coi Biển Đông là công cụ quan trọng để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, tích cực tăng cường hợp tác an ninh chính trị với các nước tuyên bố chủ quyền như Việt Nam, Philippines, Indonesia…, Mỹ không những là nước viện trợ chiến lược của những quốc gia này, mà trong các trường hợp đa phương còn đề cập đến vấn đề Biển Đông, phê phán Trung Quốc. Mục đích của việc Mỹ liên tục triển khai hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông là muốn động viên tinh thần cho những quốc gia trong khu vực. Tháng 1/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đến thăm Indonesia và Việt Nam, đề xuất Mỹ muốn tham gia tuần tra chung với 3 nước Indonesia, Malaysia, Philippines ở Biển Đông. Ngày 5/3/2018, Mỹ cử tàu sân bay USS Carl Vinson đến thăm Đà Nẵng. Những động thái này cho thấy Mỹ sẽ tiếp tục can dự có chiều sâu vào vấn đề Biển Đông. Nhật Bản tích cực phối hợp với Mỹ trong vấn đề Biển Đông, thúc đẩy quốc tế hóa, tư pháp hóa vấn đề Biển Đông, đồng thời viện trợ trang thiết bị hoặc đào tạo cho các nước như Philippines, Việt Nam… Mỹ và Nhật Bản còn lôi Ấn Độ thúc đẩy sự trao đổi kết nối trong khu vực, như Mỹ đưa ra ý tưởng Hành lang kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương kết nối Ấn Độ và Đông Nam Á, Nhật Bản và Ấn Độ đưa ra kế hoạch Hành lang tăng trưởng Á – Phi, với mục đích là cạnh tranh với sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. (4) Biến số chính trị trong nước của các nước xung quanh Biển Đông là rất lớn, không có lợi cho việc thúc đẩy lâu dài và sự ổn định hợp tác thiết thực của Biển Đông. Nội bộ các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia… đều có tiếng nói khác nhau đối với chính sách của chính phủ với Trung Quốc, tạo thành áp lực cho chính phủ khi hoạch định chính sách hợp tác hữu nghị. Ví dụ như Philippines, trong nước Philippines cũng có sự bất đồng đối với chính sách ngoại gio của Duterte. Tầng lớp tinh hoa chính trị và quân đội trong nước khó có thể thay đổi ý thức hệ thân Mỹ, tổng thống và bộ quốc phòng thỉnh thoảng lại xuất hiện mâu thuẫn về vấn đề Biển Đông. Cho dù Duterte tuyên bố muốn cắt đứt quan hệ đồng minh với Mỹ, tăng cường quan hệ với Trung Quốc, Nga, nhưng Mỹ vẫn là đối tác an ninh không thể thay thế của Philippines, tình hình chống khủng bố của Philippines cũng sẽ thúc đẩy hợp tác an ninh Mỹ – Philippines. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy sự thiện cảm của phần lớn người dân Philippines đối với Mỹ cao hơn Trung Quốc. Tình hình của Philippines không phải là trường hợp đặc biệt ở Đông Nam Á, các nước ASEAN vẫn kiên trì chính sách ngoại giao cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ. Các nước trong khu vực đều dựa vào Trung Quốc về kinh tế, dựa vào Mỹ về an ninh, ngoại giao cân bằng nước lớn của những nước này cũng thường gây ra sự thay đổi thất thường của những nước này trong vấn đề hợp tác Biển Đông.

Cơ chế hóa hợp tác ở Biển Đông

Theo học giả Trung Quốc, từ trước đến nay, vấn đề Biển Đông luôn bị vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ các đảo đá và quyền lợi biển chi phối, tiến triển của hợp tác chậm chạp, hợp tác biển của các nước ven biển thể hiện trạng thái hỗn loạn, nguồn tài nguyên chưa được khai thác có hiệu quả. Tăng cường hiệp thương trao đổi, thúc đẩy hợp tác Biển Đông luôn là nhận thức chung của các nước liên quan, vấn đề nằm ở chỗ làm thế nào để thúc đẩy và tăng cường hợp tác. Tại Hội thảo về Biển Đông thường niên ở Diễn đàn châu Á Bác Ngao năm 2017, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân đã trình bày rõ ràng ý tưởng cảu Trung Quốc đối với cơ chế hợp tác liên quan: “Các nước ven biển Biển Đông nên tích cực làm theo kinh nghiệm thành công của các khu vực khác trên thế giới, với tiền đề không ảnh hưởng đến chủ trương của các bên, có thể khởi xướng và xây dựng cơ chế hợp tác liên quan, xây dựng một diễn đàn hiệu quả để tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau, tăng cường hợp tác và chia sẻ lợi ích.

Trong điều kiện có lợi – tình hình căng thẳng của Biển Đông hạ nhiệt, cơ hội hợp tác trong khu vực lớn hơn thách thức, các nước nên nắm bắt cơ hội, thúc đẩy hợp tác Biển Đông, xuất phát từ sự quan tâm chung và lợi ích chung của các nước ven bờ Biển Đông, nghiên cứu tính khả thi và con đường thực hiện của việc xây dựng cơ chế hợp tác. Trong quá trình xây dựng cơ chế hợp tác, các nước ven bờ có thể tăng cường quản lý chung đối với Biển Đông, khai phá tiềm lực hợp tác, đồng thời tăng thêm sự minh bạch và tính có thể dự đoán của chính sách, thúc đẩy sự tin cậy lẫn nhau đi vào chiều sâu, tạo ra môi trường có lợi cho các nước thông qua đàm phán để giải quyết hòa bình tranh chấp Biển Đông, cụ thể: (1) Chuyển đổi ý thức, thể hiện nguyện vọng chính trị của hợp tác. Hiện nay, Biển Đông tồn tại thực tế vì thiếu hụt lòng tin mà làm cho nguyện vọng hợp tác của các bên trong khu vực tương đối thấp, nhưng sự khác biệt về chế độ chính trị, ý thức hệ và tranh cãi về chủ quyền không phải là nhân tố cản trở hợp tác, mấu chốt vẫn nằm ở việc tìm kiếm sự quan tâm chung của các bên ở Biển Đông, lấy lợi ích chung để triển khai và thúc đẩy hợp tác đi vào chiều sâu. Từ kinh nghiệm hợp tác trên các vùng biển khác cho thấy trong tình hình thiếu hụt lòng tin chính trị, tranh chấp vẫn chưa được giải quyét, các bên cũng có thể triển khai hợp tác an ninh phi truyền thống, điều quan trọng nhất là đưa ra nguyện vọng chính trị của hợp tác. Hiện nay, điều mà phần lớn các nước xem xét nhiều hơn khi đề cập đến vấn đề Biển Đông là các vấn đề an ninh phi truyền thống như chủ quyền lãnh thổ… mà xem nhẹ tầm quan trọng của an ninh phi truyền thống đối với tình hình Biển Đông và quản lý biển. Các nước cần phải hội tụ nhận thức chung, chủ trương một cách hợp lý quyền lợi biển, thực hiện một cách có thiện chí nghĩa vụ theo UNCLOS, đồng thời tránh làm cho tinh thần dân tộc trong nước trở thành trở ngại của hợp tác, từ đó tạo bầu không khí chính trị tốt đẹp cho hợp tác Biển Đông. (2) Thúc đẩy hợp tác từ lĩnh vực bảo vệ môi trường biển và nghề cá. Xét thấy tình trạng phức tạp của điều kiện địa lý và tranh chấp quyền tài phán trên Biển Đông, trong tình hình các bất đồng lớn vẫn chưa được giải quyết, phải thúc đẩy từ dễ đến khó hợp tác ở khu vực này, bắt đầu tư các lĩnh vực ít nhạy cảm hoặc có nhận thức chung cao như bảo vệ môi trường biển, quản lý tài nguyên nghề cá, cứu trợ nhân đạo…, hoàn thành mục tiêu hợp tác theo từng giai đoạn, cuối cùng xây dựng cơ chế hợp tác hoàn thiện trên các lĩnh vực liên quan. Sự hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm có thể sẽ nảy sinh hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy sự hợp tác trong các lĩnh vực khác. Như trên lĩnh vực hợp tác nghề cá, mục tiêu gần có thể là hợp tác điều tra hiện trạng tài nguyên cá và lượng cho phép được đánh bắt, vạch ra phương án căn bản quản lý hợp tác nghề cá trong khu vực; mục tiêu xa là khi điều kiện thích hợp thiết lập ủy ban quản lý hợp tác khu vực, phụ trách việc hoạch định chính sách nghề cá chung ở Biển Đông. Các nước ven biển Biển Đông vẫn có thể hiệp thương xây dựng cơ chế hợp tác giải quyết vấn đề đánh bắt cá bất hợp pháp, các cơ quan thực thi pháp luật giữa các nước cần phải phối hợp, cùng hành động với các quan chức ngoại giao và chuyên gia pháp luật. (3) Phát huy vai trò diễn đàn của cơ chế hiện nay. Khu vực Biển Đông có một số cơ chế hợp tác liên quan, như cuộc họp các quan chức cấp cao Trung Quốc – ASEAN về thực hiện DOC và cơ chế nhóm công tác chung, dưới cơ chế này đã thành lập Ủy ban kỹ thuật bảo vệ môi trường và nghiên cứu khoa học biển. Ngoài ra, còn có một số diễn đàn hợp tác biển của Chương trình môi trường Liên hợp quốc, nhưng chức năng tương đối phân tán và ảnh hưởng thì có hạn. Các nước ven biển Biển Đông có thể xem xét thúc đẩy và đạt được công ước khung về hợp tác trên lĩnh vực ít nhạy cảm, đưa hợp tác đơn phương và đa phương hiện nay vào trong hệ thống kết cấu hợp tác khu vực. Có học giả ở khu vực Đông Nam Á cho rằng Trung Quốc đề xuất xây dựng cơ chế hợp tác giữa các nước ven biển Biển Đông là sáng kiến rất tốt, nhưng kiến nghị không nên đi theo con đường khác, mà nên lựa chọn cơ chế hiện nay của Biển Đông để kế thừa và mở rộng. (4) Coi việc xây dựng Hội đồng hợp tác Biển Đông làm mục tiêu nỗ lực. Trên thực tế có không ít sáng kiến về cơ chế hợp tác an ninh môi trường ở Biển Đông được đưa ra, nhưng điều đáng tiếc là phần lớn những sáng kiến này đều chưa thể trở thành thực tế. Có thể xem xét việc thành lập hội đồng hợp tác Biển Đông là mục tiêu lâu dài, xây dựng hội đồng này thành diễn đàn liên chính phủ do các nước ven biển Biển Đông thông qua hiệp thương hữu nghị để thúc đẩy và tăng cường hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực như kinh tế, bảo vệ môi trường… trong khu vực, đồng thời tích cực tiến hành đối thoại và hợp tác với các quốc gia hoặc tổ chức ngoài khu vực. Cơ cấu tổ chức của hội đồng hợp tác Biển Đông nên chủ yếu bao gồm nước chủ tịch, nước thành viên và nước quan sát. Nước chủ tịch có thể do các nước thành viên đảm nhận luân phiên trong 2 năm. Nước thành viên là các nước ven biển chủ yếu của Biển Đông (Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Philippines và Indonesia). Khi mới thành lập, nước chủ tịch hội đồng hợp tác Biển Đông sẽ thành lập ban thư ký, đến thời điểm thích hợp thiết lập ban thư ký lâu dài, cũng có thể xem xét bố trí các nhóm công tác như bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên nghề cá, phát triển bền vững, xây dựng lòng tin… Hội đồng còn thiết lập quỹ hợp tác và phát triển Biển Đông, cung cấp bảo đảm nguồn vốn mang tính cơ chế cho sự vận hành và công tác của hội đồng. Về hoạt động cụ thể của hội đồng hợp tác Biển Đông, giai đoạn đầu có thể làm theo kinh nghiệm thành công của Hội đồng Bắc Cực, với cơ sở là luật mềm, ký tuyên bố hoặc bản ghi nhớ trước. Các nước thành viên là nòng cốt cảu hội đồng hợp tác Biển Đông, mọi quyếtt định của hội đồng phải do hội nghị quan chức cấp cao quyết định, đồng thời tất cả các nước thành viên đạt được sự nhất trí mới có thể thông qua. Nếu điều kiện cho phép, trên cơ sở hiệp thương thống nhất các nước thành viên có thể cho các nước ngoài khu vực xin gia nhập hội đồng hợp tác Biển Đông với vị thế nước quan sát viên lâu dài, quan sát viên chính thức hoặc nước quan sát đặc biệt, nước quan sát không có quyền bỏ phiếu quyết sách.

Nhìn chung, cách giới học giả Trung Quốc biện minh cho yêu sách chủ quyền phi pháp và hành động ngang ngược của Bắc Kinh ở Biển Đông rất dễ khiến người đọc bị ngộ nhận và hiểu sai về bản chất và hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, xuất phát từ những hành vi ngang ngược, thách thức cộng đồng quốc tế, cũng như khiêu khích trắng trợ hệ thống luật pháp quốc tế cho thấy Trung Quốc mới là kẻ gây rối và không tuân thủ luật pháp quốc tế, sử dụng sức mạnh cơ bắp để xâm chiếm biển, đảo của nước khác. Hành vi của Trung Quốc đáng bị cộng đồng quốc tế lên án và chỉ trích.

RELATED ARTICLES

Tin mới