Sau khi cơ bản hoàn thành việc quân sự hóa các cấu trúc mà Trung Quốc chiếm đóng và bồi đắp, mở rộng trái phép ở Biển Đông, Trung Quốc đang đẩy mạnh việc dân sự hóa các hoạt động của họ ở Biển Đông. Một trong những cách làm hết sức nguy hiểm là Trung Quốc tăng cường hoạt động của lực lượng dân quân biển dưới danh nghĩa các tàu cá dân binh ở Biển Đông. Nguy hiểm là ở chỗ Trung Quốc dùng đến dân quân biển là tấn công ở mức thấp hơn quân đội chính quy, làm phức tạp thêm sự đối phó của các bên khác, trong trường hợp này là các nước ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Đài Loan. Việc các lực lượng chấp pháp Trung Quốc giấu mặt sau lớp vỏ dân sự cũng làm khó cho Mỹ trong các ứng xử ở Biển Đông bởi lẽ Bắc Kinh có thể chối bỏ mọi bằng chứng của các hành vi hung hăng trên biển. Tuy nhiên, những bằng chứng này tự nó đã nói lên tất cả.
Lực lượng dân quân biển đã được đưa vào các văn bản pháp luật của Trung Quốc. Điều 36 của Luật nghĩa vụ quân sự Trung Quốc năm 1984, được sửa đổi năm 1998, đòi hỏi dân quân phải “thực hiện những nghĩa vụ có liên quan đến việc chuẩn bị chiến đấu, bảo vệ biên giới và duy trì trật tự công cộng, luôn luôn sẵn sàng tham gia chiến tranh cùng với quân đội, chống lại các cuộc tấn công và bảo vệ tổ quốc”. Sách Trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2013 nâng cao vai trò của dân quân biển, trong việc khẳng định chủ quyền và hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Lực lượng này tương tự với dân quân trên đất liền vốn được biết đến rộng rãi hơn, hoạt động tại tất cả các quân khu, dưới sự chỉ huy của Giải Phóng Quân Trung Quốc (PLA). Cũng trong năm 2013, ông Tập Cận Bình đã đi thăm lực lượng dân quân biển ở Đồ Môn, Hải Nam, khen ngợi đây là hình mẫu để noi theo.
Trung Quốc vốn có đội tàu cá lớn nhất thế giới, và những chiếc tàu đánh cá xa bờ Trung Quốc hoạt động trên mọi vùng biển của hành tinh là thủ phạm của việc lạm thu hải sản, gây ô nhiễm. Tuy nhiên, với những tàu của lực lượng dân quân biển đề cập trong bài viết này không thuộc đội tàu đánh bắt xa bờ. Trung Quốc đang có một số lượng lớn tàu cá dân binh (của lực lượng dân quân biển) hoạt động ở Biển Đông mà tập trung nhiều ở Trường Sa. Căn cứ vào các tư liệu ảnh chụp vệ tinh, ảnh hồng ngoại và dữ liệu do radar xử lý của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Mỹ (CSIS) và Vulcan Inc.’s Skylight Maritime Initiative Mỹ thì số lượng tàu Trung Quốc thường xuyên hiện diện gần Đá Xubi (Subi Reefs) và Đá Vành Khăn (Mischief Reefs) lên đến từ 200 đến 300 chiếc. Khi các tàu Trung Quốc không đậu tại Đá Xubi và Đá Vành Khăn, hầu hết chúng được trông thấy gần các đảo do Philippines và Việt Nam trấn giữ ở Trường Sa.
Những tàu Trung Quốc tại đây trung bình có trọng tải trên 500 tấn, vượt xa kích thước đối với các tàu trên tuyến hàng hải quốc tế bị buộc phải sử dụng thiết bị thu phát hệ thống nhận dạng tự động (Automatic Identification System – AIS), giúp nhận ra danh tính và các dữ liệu khác khi du hành trên đại dương. Nhưng chỉ có không đầy 5% trong số tàu Trung Quốc phát ra tín hiệu. Điều này cho thấy đây là một đoàn tàu muốn che giấu số hiệu và các hoạt động của mình. Ảnh vệ tinh cho thấy các tàu Trung Quốc hầu như luôn thả neo, thường tập trung thành những nhóm lớn và chắc chắn không phải là cách thức mà các tàu đánh cá thương mại sử dụng. Các ảnh vệ tinh cũng cho thấy đội tàu này gồm các tàu lớn và hiện đại (trên 160 feet), không giống như các tàu mẹ (80 đến 115 feet) thường đi kèm các tàu cá Trung Quốc (trung bình 15 feet) tại các rạn san hô ở Trường Sa, Hoàng Sa, Scarborough. Rất nhiều tàu cá dân binh được gia cố và trang bị hầm chứa đạn.
Hầu hết các tàu trên đây tham gia hoạt động dân quân biển Trung Quốc. Hoạt động của lực lượng dân quân biển Trung Quốc đã được ghi nhận từ nhiều nguồn: Học viện Hải quân Hoa Kỳ, báo cáo của quân đội Philippines, và ngay trong các văn bản chính thức của Trung Quốc xác định vai trò dân quân. Cơ bản là lực lượng này phục vụ hậu cần và làm tai mắt cho quân đội Trung Quốc cung ứng cho các tiền đồn, giám sát và báo cáo hoạt động của các nước tranh chấp, tham gia tập luyện với quân đội cũng như lực lượng chấp pháp.
Những tàu cá dân binh này ngày càng trở nên nguy hiểm khi chúng trực tiếp quấy nhiễu tàu bè của các nước khác – áp sát một cách nguy hiểm các tàu hải quân, cảnh sát biển hay tàu dân sự của nước ngoài hoạt động bình thường trên Biển Đông, đôi khi còn tông vào họ. Nói chung là gây mất an toàn cho các bên khác khi hoạt động trong vùng biển bị Bắc Kinh yêu sách, trong khi quân đội và tuần duyên Trung Quốc đứng ngoài nhìn – một mối đe dọa ngầm ở mức độ không thể chối cãi.
Việc Trung Quốc sử dụng một số lượng lớn tàu cá dân binh bao vây xung quanh đảo Thị Tứ do Philippines chiếm giữ từ 2 đến 5 hải lý và đảo Loại Ta Tây (Loaita Cay) và Loại Ta (Loaita Island) cũng do Philippines chiếm đóng trong những tháng đầu năm 2019 là ví dụ điển hình nhất. Quân đội Philippines khẳng định đã đếm được 275 tàu Trung Quốc tập trung gần đảo Thị Tứ từ tháng Giêng đến tháng Ba, và Manila đã phản đối Bắc Kinh về sự hiện diện này.
Mới đây nhất, từ đầu tháng 7/2019, Trung Quốc đã huy động khoảng 3 chục tàu cá dân binh vây quanh tàu Hải Dương 08 của Trung Quốc để bảo vệ hoạt động khảo sát bất hợp pháp của Hải Dương 08 ở khu vực bãi Tư Chính trên thềm lục địa Việt Nam, gây tình hình căng thẳng đối đầu với tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam. Ngoài ra, theo một số nguồn tin, Trung Quốc còn cho các tàu cá dân binh này đến gần các giàn khoan của Việt Nam để theo dõi, giám sát, kể cả uy hiếp các hoạt động thông thường của các giàn khoan trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam.
Có thể thấy Trung Quốc đang sử dụng Dân quân biển núp dưới danh nghĩa các tàu cá là lực lượng tiên phong trong việc thực hiện yêu sách phi lý của họ tại Biển Đông. Đó là đội tàu hùng hậu nhất trong khu vực, thường xuyên tấn công cả láng giềng (vụ việc đâm chìm tàu cá Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, rồi bỏ mặc 22 ngư dân philippines lênh đênh trên biển hồi tháng 6 vừa qua hay các vụ việc đâm vào tàu cá Việt Nam ở khu vực quần đảo Hoàng Sa là những ví dụ cụ thể), lẫn bên thứ ba tiến hành hoạt động khẳng định tự do hàng hải trong khu vực, như bám theo quấy nhiễu các tàu của Mỹ Nhật, Úc, Ấn Độ, Pháp, Anh… đang hoạt động trên Biển Đông chẳng hạn. Lực lượng này không mang đồng phục, không chuyên nghiệp, không được huấn luyện thích hợp, đứng ngoài Luật Biển quốc tế, các quy luật và cam kết của quân đội, và các cơ chế đa phương nhằm phòng tránh các vụ đụng độ trên biển.
Các sự cố sắp tới trên Biển Đông nhiều khả năng liên quan đến dân quân biển thay vì quân đội hoặc tuần duyên Trung Quốc. Lực lượng dân quân biển không có cơ chế thông tin và giảm căng thẳng như giữa các đơn vị chuyên nghiệp và các đối tác ở các nước khác hiện nay nên sẽ rất khó xử lý.
Báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng Mỹ gửi lên Nghị viện Mỹ đã nhấn mạnh lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đang giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động cưỡng ép trên Biển Đông nhằm giúp Bắc Kinh thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông mà không làm xảy ra xung đột. Đầu năm 2019, Tư lệnh Hải quân Mỹ John Richardson tuyên bố sẽ coi lực lượng dân quân biển Trung Quốc là tàu chiến và sẽ áp dụng cách phản ứng với hành vi khiêu khích tương tự chiến hạm Trung Quốc.
Nhận thấy sự nguy hiểm của lực lượng dân quân biển Trung Quốc hoạt động trên Biển, từ đầu năm 2019 Mỹ đã quyết định điều tàu tuần tra của Lực lượng tuần duyên Mỹ vào biên chế của Hạm đội 7, đóng ở Yokosuka Nhật Bản để tham gia các hoạt động tuần tra trên Biển Đông, hỗ trợ quá trình thi hành pháp luật trên Biển Đông. Tháng 5/2019, lực lượng tuần duyên Mỹ đã tiến hành tập trận chung với 2 tàu của Phillipines.
Để đối phó với cách làm mới của Bắc Kinh, tránh một cuộc khủng hoảng do các tàu dân quân biển gây ra, các nước, trước hết là các nước ven Biển Đông cần vạch trần bộ mặt thật và sự nguy hiểm của lực lượng này tại các diễn đàn quốc tế và khu vực; yêu cầu Bắc Kinh gỡ bỏ tấm mặt nạ dối trá, thừa nhận các bằng chứng về số lượng và hoạt động mang tính áp đảo của các tàu cá dân binh này; đồng thời nhấn mạnh rằng chính quyền Trung Quốc sẽ phải trả giá cho thái độ “xấu chơi” trên Biển Đông.
Rõ ràng là việc Trung Quốc sử dụng hàng trăm tàu cá dân binh dưới sự bảo trợ của lực lượng dân quân biển, để xác quyết chủ quyền và quấy nhiễu các nước láng giềng, cản trở tự do, an ninh hàng hải của các nước ngoài khu vực ở Biển Đông là hết sức nguy hiểm và thâm độc. Đây chính là một phần trong học thuyết quân sự mới của Bắc Kinh được triển khai trên Biển Đông.