Việt Nam và Singapore nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Trong chuyến thăm Singapore (22-24/9), Phó Thủ tướng Việt Nam Trương Hòa Bình đã có nhiều cuộc tiếp xúc, hội đàm với Tổng thống Halimah Yacob, hội đàm với Phó Thủ tướng Vương Thụy Kiệt và gặp Bộ trưởng Cao cấp điều phối an ninh quốc gia Tiêu Chí Hiền.
Trong các cuộc gặp, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình Bình khẳng định Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ hợp tác tin cậy, hiệu quả và thực chất với Singapore trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi; nhấn mạnh, trong bối cảnh xu thế bảo hộ và cọ xát thương mại giữa các nước lớn gia tăng, hai nước cần tiếp tục tăng cường kết nối và phát huy hiệu quả hơn nữa tính bổ sung lẫn nhau giữa hai nền kinh tế; hoan nghênh doanh nghiệp Singapore tham gia cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam và tiếp tục mở rộng đầu tư, hợp tác trong các lĩnh vực phát triển hạ tầng, logistics, tài chính, ngân hàng, công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo…
Lãnh đạo Singapore khẳng định sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam phát triển đô thị thông minh trên cơ sở phát huy các thế mạnh riêng của Việt Nam, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực về công nghệ thông tin; đánh giá cao kết quả hợp tác giữa hai nước thời gian qua trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và pháp luật; cho rằng Việt Nam là một điển hình phát triển thành công nhờ chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá cao lập trường của Việt Nam về ủng hộ hệ thống thương mại đa phương cũng như quan điểm tích cực và những đóng góp quan trọng của Việt Nam đối với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); khẳng định mong muốn cùng Việt Nam và các nước liên quan phối hợp chặt chẽ, thúc đẩy sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Ngoài ra, hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường hợp tác phòng chống tham nhũng và tương trợ tư pháp, thúc đẩy phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp hai nước, cả song phương và trong các khuôn khổ đa phương; nhấn mạnh Việt Nam và Singapore chia sẻ nhiều giá trị và lợi ích chung về hoà bình, ổn định và phát triển, cùng có nhu cầu tăng cường lòng tin chiến lược và đẩy mạnh hơn nữa hợp tác, đặc biệt trong bối cảnh tình hình khu vực diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng.
Về vấn đề Biển Đông, hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, kêu gọi giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về luật Biển 1982 (UNCLOS), triển khai đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thúc đẩy đàm phán để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trong những năm gần đây, để đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như môi trường xung quanh thuận lợi cho việc phát triển kinh tế – xã hội, Singapore đã và đang nỗ lực thúc đẩy các biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Về cơ bản, Singapore không phải là nước tranh chấp, không có đòi hỏi về chủ quyền tại Biển Đông, giữ lập trường trung lập không nghiêng về bên nào. Tuy nhiên, Singapore quan tâm vấn đề Biển Đông là vì Singapore phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế, tự do hàng hải và tự do hàng không tại Biển Đông liên quan đến lợi ích kinh tế của nước này. Do đó, Singapore hy vọng các bên tranh chấp kiềm chế, giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về luật biển.
Trong các tuyên bố, phát biểu của lãnh đạo cao của Singapore (Thủ tướng Lý Hiển Long, cựu Ngoại trưởng Shanmugam, Ngoại trưởng Vivian BalaKrishnan…) đều thể hiện lập trường trung lập, không đứng về phía bên nào trong tranh chấp chủ quyền, song khẳng định Singapore có lợi ích và mong muốn các vụ tranh chấp được giải quyết một cách hòa bình theo luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982. Singapore cũng cho rằng ASEAN sẽ không phân định và giải quyết vấn đề cụ thể giữa các quốc gia yêu sách chủ quyền. Thay vào đó, ASEAN có thể thiết lập một khuôn khổ mang lại các điều kiện cần thiết để các quốc gia tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông thương lượng một giải pháp hòa bình. Tờ The Straits Times dẫn tuyên bố của Ngoại trưởng Singapore Shanmugam khẳng định tự do hàng hải là vấn đề quan trọng đối với sự tồn tại của Singapore với tư cách một quốc gia có chủ quyền. Trước đó (5/2014), khi phát biểu bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 47 (AMM) tại Myanmar, Ngoại trưởng Shanmugam cũng cho rằng, leo thang căng thẳng ở Biển Đông là vấn đề “gây quan ngại nghiêm trọng” cho ASEAN và cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Tại các diễn đàn song phương và đa phương, Singapore tiếp tục cho rằng ASEAN cần thể hiện tiếng nói thống nhất và trách nhiệm trước các vấn đề quan trọng ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông và cần sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực. Singapore bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình hình phức tạp hiện nay ở Biển Đông và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và DOC mà ASEAN và Trung Quốc cùng ký kết, trong đó có các nguyên tắc về thực hiện kiềm chế, không làm phức tạp tình hình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực, nỗ lực để sớm đạt được COC. Phát biểu với báo chí bên lề Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 tại Myanmar (5/2014), Ngoại trưởng Singapore Shanmugam chobiết: “Vì lợi ích của toàn khu vực, chúng ta cần có hòa bình chứ không phải biến cố. Những gì đang xảy ra tạo nên yêu cầu khẩn cấp hơn về việc phải có một bộ Quy tắc ứng xử Biển Đông” giữa ASEAN và Trung Quốc. Singapore và ASEAN thể hiện “sự quan ngại nghiêm trọng” của các quốc gia thành viên ASEAN trước những diễn biến trên Biển Đông. Những diễn biến này “làm gia tăng căng thẳng trong khu vực”; kêu gọi tôn trọng, thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC mà Trung Quốc đã ký kết với Việt Nam năm 2002. Ngoại trưởng Singapore cũng nhấn mạnh rằng những gì đã xảy ra càng cho thấy tính cấp thiết của việc đưa ra COC. Tại phiên Tham khảo Chính trị lần thứ 9 và giao lưu hai Bộ Ngoại giao lần thứ 5 giữa Việt Nam – Singapore (8/2015), Singapore khẳng định, trong vai trò Điều phối viên (2015 – 2018), sẽ nỗ lực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc. Trong chuyến thăm Mỹ của Bộ trưởng quốc phòng Singapore Ng Eng Hen (12/2015), Singapore đồng ý cho Mỹ triển khai máy bay P-8 Poseidon tới Singapore, theo MOU 1990 và SFA 2005. Hai bên lưu ý rằng việc triển khai máy bay này sẽ thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa quân đội các nước trong khu vực thông qua tham gia một loạt cuộc diễn tập song phương và đa phương, đồng thời hỗ trợ kịp thời các nỗ lực cứu trợ nhân đạo và thảm họa (HADR) và an ninh biển trong khu vực.
Không những vậy, Singapore cũng đã tích cực đưa ra các sáng kiến, ủng hộ các nỗ lực giải quyết các tranh chấp của các nước. Trong chuyến thăm Trung Quốc (3/2016), với vai trò là Điều phối viên quan hệ ASEAN – Trung Quốc, Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan cho biết Singapore đã đề xuất một khái niệm mới được gọi là Bộ quy tắc cho các vụ va chạm ngoài ý muốn trên biển mở rộng (CUES) với các bên liên quan tới tranh chấp ở Biển Đông nhằm tránh xảy ra những tính toán sai có thể dẫn đến xung đột trên biển. Singapore sẽ đóng vai trò trung lập để tạo thuận lợi cho đối thoại mang tính xây dựng giữa các bên liên quan. Tại buổi thuyết trình do Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (Anh) tổ chức ở Singapore (6/2014), Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan nêu rõ Singapore mong muốn tranh chấp ở Biển Đông phải được giải quyết theo cách không để các tàu đối đầu nhau và không để xảy ra nổ súng; khẳng định Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông là giải pháp tốt nhất mà Singapore hy vọng. Theo ông, bộ quy tắc này sẽ không bao giờ đạt được nếu các bên tranh chấp còn cáo buộc lẫn nhau về vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông bởi các bên tranh chấp cứ nghĩ rằng tại sao phải nhất trí thỏa thuận mới khi thỏa thuận cũ đã bị vi phạm.