Tuesday, November 26, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaTọa đàm “Quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong...

Tọa đàm “Quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong Biển Đông theo luật pháp quốc tế”: Giới học giả lên án TQ

Ngày 14/10, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Tọa đàm “Quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong Biển Đông theo luật pháp quốc tế”. Tại tọa đàm, giới chuyên gia, học giả khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, đồng thời lên án, chỉ trích những hành vi phi pháp của Trung Quốc trong khu vực.

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, nhà báo Phạm Đức Thái, Ủy viên Ban Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: Biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc Việt Nam. Không chỉ có nguồn tài nguyên phong phú với giá trị khai thác kinh tế lớn, vùng biển nước ta còn giữ vị trí địa chiến lược, an ninh quốc phòng quan trọng. Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, trong những năm qua, Việt Nam đã triển khai tổng thể các hoạt động nhằm quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, bảo vệ các lợi ích quốc gia trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế. Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong ASEAN, gìn giữ, phát triển các mối quan hệ đối ngoại với các nước, các tổ chức quốc tế, nêu cao chính nghĩa, tạo thế và lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian gần đây, tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, nhiều thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên ngày càng gay gắt, tác động trực tiếp tới việc bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển của Việt Nam. Tình hình hiện nay cũng đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cấp thiết đối với công tác thông tin, tuyên truyền về biển đảo nhằm nâng cao nhận thức, củng cố sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Tiến sĩ Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam khẳng định tầm quan trọng của kinh tế biển đối với Việt Nam khi chiếm 60% tổng sản phẩm quốc nội (GDP); cho rằng điểm thuận lợi là thế giới đang theo xu thế nhận thức tốt vai trò của biển, đại dương, hướng tới việc khai thác và bảo tồn biển một cách bền vững. Tuy nhiên, song song đó là những căng thẳng có thể ảnh hưởng tới khả năng khai thác kinh tế và bảo tồn tài nguyên của Việt Nam trên biển; đồng thời nhấn mạnh chủ quyền biển đảo của Việt nam bị thách thức nghiêm trọng. Biển Đông có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn, cũng như các tranh chấp chủ quyền trong khu vực. Bên cạnh đó, khó khăn tiếp theo là những biến đổi, suy thoái môi trường biển tự nhiên.

Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ khẳng định, Việt Nam sở hữu đầy đủ những bằng chứng lịch sử xác thực, xuyên suốt về chủ quyền ở Biển Đông theo quy định của luật pháp quốc tế; cho biết UNCLOS năm 1982 như một “Hiến chương xanh”, như Hiến pháp của LHQ về luật Biển, để điều chỉnh mọi việc xảy ra trên các đại dương. Căn cứ vào UNCLOS, Việt Nam đã nội luật hóa bằng luật Biển năm 2012 và đã tuyên bố cách xác lập vùng nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo UNCLOS. Tuy nhiên, Trung Quốc đã vận dụng nhiều lý lẽ khác nhau về thứ gọi là quyền lịch sử để yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán với hơn 90% Biển Đông, đi ngược lại luật pháp quốc tế. Năm 1996, Trung Quốc đã công bố đường cơ sở bằng cách vận dụng thiết lập đường cơ sở quốc gia quần đảo đối với Tây Sa, tức là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Từ đường cơ sở bao quanh Tây Sa đó, Trung Quốc yêu sách vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Nhưng đó là một cách vận dụng sai công ước. Bởi theo UNCLOS, thứ mà Trung Quốc gọi là Tây Sa không phải quốc gia quần đảo, và “Tây Sa” đó cũng không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Ngoài ra, theo ông Trần Công Trục, Tòa trọng tài đã bác bỏ hoàn toàn lập luận của Trung Quốc về thứ gọi là “quyền lịch sử” đối với các khu vực trên, bởi khi thảo luận về UNCLOS 1982, một số quốc gia đã đưa ra vấn đề quyền lịch sử đối với tài nguyên trên biển, nhưng đã bị đa số quốc gia bác bỏ. Qua đó có thể khẳng định Việt Nam hoàn toàn có quyền chủ quyền, quyền tài phán với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, bao gồm bãi Tư Chính.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết: “Biển Đông có hai yếu tố, quan trọng nhất là thềm lục địa. Về góc độ này, Việt Nam là quốc gia có thềm lục địa tự nhiên nhiều nhất. Ngoài thềm lục địa thì có cấu trúc nước sâu. Đây là một đặc trưng, được hình thành từ 240 triệu năm về trước khi tách giãn hình thành nên Biển Đông. Trong tổng số 7 quần đảo lớn liên quan đến san hô ở khu vực Biển Đông thì có 5 quần đảo nằm trong cấu trúc nước sâu. Tất cả các quần đảo này 100% là ốc đảo san hô và được hình thành, kế thừa trên nền núi lửa cổ của vỏ đại dương cách đây 240 triệu năm. 5 quần đảo trong cấu trúc nước sâu nói trên có 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với 100% là san hô. Với Biển Đông, có san hô thì có cá, có cá thì có nghề cá, có nghề cá thì có ngư dân. Cho nên 5 quần đảo này quyết định rất lớn đến nghề cá của tất cả các nước trong vùng biển. Đấy là một đặc trưng rất đặc biệt. 5 quần đảo có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng, trong đó người ta coi nếu ai kiểm soát được Hoàng Sa, Trường Sa thì sẽ kiểm soát được toàn bộ Biển Đông. Còn trên bề mặt, 90% hệ thống dòng chảy trong Biển Đông là dòng chảy theo mùa. Mùa hè thì phân kỳ, mùa đông thì hội tụ. Và chính đặc điểm phân kỳ, hội tụ này cho thấy, bất kỳ tác động gì xảy ra ở vị trí nào của Biển Đông, nhất là khu vực giữa vùng biển thuộc vùng nước sâu đều ảnh hưởng đến phần còn lại của Biển Đông. Chính cấu trúc nước sâu giúp cho Biển Đông ngoài việc rất giàu tiềm năng dầu khí ở thềm lục địa, thì còn là nơi thu hút và sở hữu tất cả tài nguyên khác kể cả sinh vật, phi sinh vật. Có thể ví rằng, cấu trúc nước sâu là một kho báu của Biển Đông.

Theo ông Nguyễn Chu Hồi, Bãi Tư Chính cùng các bãi ngầm và đá ngầm ở khu vực này là một phần không thể tách rời của thềm lục địa Việt Nam về phía Đông Nam, ngăn cách với quần đảo Trường Sa của Việt Nam bằng một rãnh sâu nên theo Công ước UNCLOS 1982 và hoàn toàn không thuộc quần đảo Trường Sa. Về mặt địa chất thì vùng Tư Chính thuộc thềm lục địa Việt Nam và không phải là một bộ phận của quần đảo Trường Sa. Bãi Tư Chính của Việt Nam được các luật sư công pháp quốc tế khẳng định hoàn toàn không nằm trong khu vực chồng lấn chủ quyền. Cho nên, bãi Tư Chính chưa hề và chưa bao giờ là khu vực tranh chấp chủ quyền. Bãi Tư Chính ở trên thềm lục địa Việt Nam, đã được Việt Nam sử dụng và khai thác đặc quyền kinh tế một cách ổn định và từ lâu, chứ không phải bây giờ mới có, mới xuất hiện tuyên bố chủ quyền, càng không phải khu vực đang có tranh chấp trên biển. Ngoài ra, từ trước đến nay, 5 quần đảo của cấu trúc nước sâu Biển Đông luôn được các tài liệu chính thống của Ủy ban Thủy đạo quốc tế Liên hợp quốc và các tài liệu địa lý quốc tế công bố về mặt địa lý. Chưa bao giờ và cũng chưa có một học giả nào quan niệm rằng Trường Sa bao gồm cả cụm Tư Chính. Theo ông Chu Hồi, bởi những đặc trưng của Biển Đông nêu trên nên từ lâu Biển Đông trở thành mối quan tâm của các nước, trong đó có các nước lớn. Và cũng trở thành nơi có lợi ích đan xen trên nhiều phương diện. Chính vì lợi ích đa phương này mà Biển Đông khá phức tạp về mặt tranh chấp, liên quan tới các vấn đề tự do hàng không, hàng hải, vấn đề chủ quyền và yêu sách chủ quyền đơn phương… Nếu bất kỳ một yêu sách nào mà không dựa trên quy định UNCLOS 1982 thì đều có thể dễ dàng hướng đến việc không thừa nhận trong Biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển (tức vùng 200 hải lý) và không thừa nhận tồn tại vùng ngoài 200 hải lý (nếu vẽ nghiêm túc theo đúng UNCLOS). Khái niệm này được quốc tế gọi là vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia và theo luật biển Việt Nam năm 2012 thì gọi là vùng biển quốc tế. Khi không công nhận như vậy thì đương nhiên sẽ chạm vào lợi ích của nhiều nước. Và bị cộng đồng quốc tế phản ứng, nhất là những nước trong khu vực Biển Đông và các quốc gia liên quan đến hoạt động thương mại trên Biển Đông. Do đó, hành vi xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của tàu khảo sát địa chấn Hải Dương 8 và nhóm tàu hộ tống Trung Quốc khiến quốc tế phản đối mạnh mẽ với nhiều hình thức, kể cả thông qua nghị viện hay bộ máy quản lý hành chính như Mỹ, EU, Nhật Bản… Theo ông Chu Hồi, cộng đồng quốc tế rất ủng hộ tiếng nói chính nghĩa của Việt Nam và thái độ của Việt Nam trong nỗ lực kiên trì theo đuổi giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế.

Tại cuộc Tọa đàm, giới chuyên gia, học giả cũng đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bảo vệ các lợi ích quốc gia trên biển. Đồng thời, góp phần giúp người dân, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế hiểu đúng về quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ quy định của luật pháp quốc tế.

RELATED ARTICLES

Tin mới