Ngay sau lễ kỷ niệm 70 năm Quốc khánh Trung Quốc, Bắc Kinh đã tổ chức 70 năm lập Không quân. Tuy nhiên, hoạt động kỷ niệm này lu mờ hơn rất nhiều so với lễ duyệt binh 70 năm Quốc khánh và 70 năm thành lập Hải quân. Điều đó cho thấy, Trung Quốc hiện đang coi trọng và tập trung mọi nguồn lực phát triển Hải quân.
Kỷ niệm 70 năm “nhạt nhòa”
Tham dự lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Không quân (8/11), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Tập Cận Bình thay mặt Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương Trung Quốc, gửi lời chúc mừng nồng nhiệt 70 năm thành lập Không quân, gửi lời hỏi thăm chân thành tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ Không quân. Ông Tập Cận Bình nêu rõ, “Không quân Nhân dân đã trải qua chặng đường huy hoàng 70 năm. Không quân Nhân dân xứng đáng là bộ đội đáng tin cậy của Đảng và nhân dân”; nhấn mạnh, Không quân Nhân dân đã đứng trên khởi điểm lịch sử mới. Cần đi sâu quán triệt tư tưởng xây dựng quân đội hùng mạnh của Đảng trong thời đại mới, đi sâu quán triệt phương châm chiến lược quân sự trong thời đại mới, ghi nhớ nguyện ước ban đầu và sứ mệnh, tôn vinh truyền thống vẻ vang, mạnh dạn sáng tạo và vươn lên, nỗ lực xây dựng Không quân Nhân dân thành Không quân hàng đầu thế giới toàn diện, không ngừng lập nên thành tích mới lớn hơn.
Quá trình phát triển của Không quân Trung Quốc
Về cơ cấu, tổ chức không quân Trung Quốc, Chỉ huy lực lượng Không quân PLA làTổng tư lệnh Không quân – kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Quân số hiện nay của Không quân PLA vào khoảng 330.000 người (số liệu cuối năm 2013, còn có số liệu khác là 338.000). Các binh chủng chủ yếu của Không quân PLA gồm: Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích-ném bom, Không quân ném bom, Không quân vận tải và Không quân trinh sát. Trong cơ cấu tổ chức của Không quân PLA còn có lực lượng Phòng không mặt đất gồm các đơn vị tên lửa Phòng không, pháo Phòng không và bộ đội đổ bộ đường không. Cấp chiến dịch của Không quân PLA là tập đoàn quân Không quân – mỗi tập đoàn quân có một số binh đoàn và một số đơn vị. Cấp chiến thuật – sư đoàn không quân gồm 3 trung đoàn, mỗi trung đoàn có 3 phi đội, mỗi phi đội gồm 3 biên đội, mỗi biên đội – từ 4 đến 5 máy bay.
Lực lượng Không quân Trung Quốc được chia thành các cụm nằm trong biên chế tổ chức của 07 đại quân khu. Số lượng các sư đoàn Không quân trong mỗi quân khu phụ thuộc vào quy mô và nhiệm vụ của quân khu đó. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2012, quân số của Không quân PLA giảm từ 400.000 xuống còn 330.000 người . Tổng số máy bay chiến đấu cũng giảm từ 5.300 xuống còn 1.693 chiếc. Số lượng máy bay ném bom- từ 630 xuống còn 82 chiếc. Đặc biệt là Không quân tiêm kích- ném bom và Không quân cường kích có sự thay đổi rất đáng kể cả về số lượng lẫn chất lượng. Cụ thể : các máy bay hỗ trợ hỏa lực trực tiếp cho Lục quân Q-5 ( năm 1995 có 500 chiếc) đã được thanh lý hết, còn các biến thể của Q-5 như Q-5C/D/E đến năm 2005 chỉ còn 300 chiếc (trong trận chiến chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, cường kích Q-5 và tiêm kích J-6 (MiG-19) của Trung Quốc đã không thể hỗ trợ cho lính thủy đổ bộ vì bán kính hoạt động hạn chế, còn máy bay ném bom H-5 (Il-28) cũng không tham chiến vì sợ tiêm kích siêu âm F-5E của Việt Nam cộng hòa lúc đó. Số lượng máy bay của Không quân tiêm kích chiến trường trong giai đoạn từ 1985 đến 2012 cũng giảm từ 4.000 chiếc xuống còn 890 chiếc. Các máy bay thế hệ 2 và một phần máy bay thế hệ 3 đã được đưa ra khỏi trang bị. Đến cuối năm 2013, Không quân PLA có tất cả 33 sư đoàn gồm : 03 sư đoàn không quân ném bom, 04 sư đoàn không quân tiêm kích- ném bom, 24 sư đoàn không quân tiêm kích và 02 sư đoàn không quân vận tải.
Mặc dù trong biên chế của Không quân tiêm kích còn tương đối nhiều các máy bay tiêm kích thế hệ 3 như J-8 (J- Jianjiji-tiêm kích) – 552 chiếc, sức mạnh tác chiến chủ yếu của lực lượng này là các máy bay tiêm kích hạng nhẹ J-10 , tiêm kích chiến trường đa năng Su-27 do Nga và Trung Quốc sản xuất (các máy bay do Trung Quốc sản xuất được gọi là J-11) và các máy bay đa năng Su-30MKK và Su-30MK2 mua của Nga. Các máy bay Su-27SK ( J-11) các biến thể khác nhau được coi là máy bay thế hệ 4, còn Su-30MKK và Su-30MK2 được coi là máy bay thế hệ “4+”. Tổng số các máy bay kiểu trên ( năm 2012) là 340 chiếc, trong đó : J-10A/S – hơn 200, J-11B/BS – hơn 70 , Su-30MKK mua của Nga -73, Su-27SK – 43 chiếc. Theo tiêu chí về số lượng máy bay thế hệ 4 và “4+” thì Không quân Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giói, chỉ sau Mỹ và vượt Nga (Nga chỉ có dưới 230 chiếc)
Về máy bay tiêm kích đa năng J-10 và J -11, giữa những năm 80 của thế kỷ trước, giới lãnh đạo Trung Quốc phê duyệt chương trình chế tạo máy nay tiêm kích thế hệ 4 .Một thời gian sau, khi đã chốt lại nhiệm vụ kỹ thuật, các công trình sư Trung Quốc tập trung vào việc thiết kế các máy bay đa năng. Một số chuyên gia Nga được Trung Quốc mời tham gia dự án . Sau đó phía Nga đã cung cấp cho Trung Quốc động cơ đã cải tiến AL-31FN với lực đẩy 12.700 kg để lắp cho J-10 và các biến thể của nó. Chuyến bay đầu tiên của J-10 được thực hiện ngày 22/3/1998. Sau khi hoàn thành các chuyến bay thử nghiệm cấp nhà nước, tháng 7/2004, J-10 được đưa vào trang bị. Các tính năng kỹ-chiến thuật cơ bản của tiêm kích đa năng J-10 như sau: trọng lượng cất cánh tối đa: 19.277 kg, tốc độ tối đa 2,2M, bán kính tác chiến (có tiếp dầu trên không) 1.600 km, không tiếp dầu: 550km. Máy bay có 11 giá treo. J-10 được trang bị nhiều loại vũ khí, có thể mang khối lượng tác chiến đến 6.000 kg.Được trang bị pháo tự động 30ly. J-10 có trang bị phương tiện vô tuyến- điện tử hiện đại: hệ thống điều khiển vũ khí gồm cả tổ hợp radar ngắm bắn tích hợp NPIET KL-10 và radar với ăng ten mạng pha. J-10 còn có thể mang các container có các chức năng khác nhau dưới thân máy bay. Loại máy bay tiêm kích hiện đại hơn cả của Không quân PLA hiện nay là các máy bay họ Su-27 và Su-30 mua hoặc sản xuất theo giấy phép của Nga. Việc khai thác và nắm bắt các công nghệ sản xuất các loại máy bay này đã giúp Trung Quốc rút ngắn được hàng chục năm trong chế tạo máy bay thế hệ 4. Năm 1998, nhờ sự giúp đỡ của các chuyên gia và thực hiện dự án của Nga, Trung Quốc đã cải tạo và tái trang bị các xưởng trong nhà máy chế tạo máy bay ở thành phố Thẩm Dương để lắp ráp các máy bay kiểu này. Một số nhóm chuyên gia Trung Quốc đã đi thực tập tại Tập đoàn sản xuất máy bay mang tên Iu.A.Gagarin tại thành phố Komsomolsk-na-Amur. Theo Chương trình sản xuất theo giấy phép thời hạn 10 năm mà Trung Quốc ký với Nga thì sẽ có 200 Su-27 được lắp ráp tại Trung Quốc, 105 trong số đó sẽ lắp ráp từ các bộ phận ,linh kiện và chi tiết do Nga cung cấp. Tuy nhiên, Phía Trung Quốc ngay sau khi lắp ráp xong lô đầu tiên đã phá vỡ hợp đồng với Nga và tự mình sản xuất. Phiên bản Su-27 SK của Trung Quốc được đặt tên là J-11. Tiếp sau đó, Trung Quốc cũng khước từ sự cộng tác của các chuyên gia Nga và tự phát triển và hiện đại hóa J-11. Có thể coi J-11 là máy bay tiêm kích đa năng thế hệ 4+. Từ năm 2007, J-11 phiên bản cải tiến được sản xuất với khối lượng không lớn và được đưa vào trang bị cho Không quân PLA. Tuy nhiên, do một loạt vấn đề trong khai thác máy bay , đặc biệt là các trục trặc của động cơ WS-10 Trung Quốc tự sản xuất ( có tuổi thọ và độ bền kém- vụ J-10B trang bị động cơ WS-10 đang bay bỗng chết máy ngày 15/11/2014 mới đây là một ví dụ điển hình) nên nước này quyết định lại mua các động cơ AL- 31F của Nga để thay thế WS-10 cho tất cả máy bay đã xuất xưởng và các máy bay đang được lắp ráp thuộc biến thể này. Công tác nghiên cứu chế tạo J-10, tổ chức sản xuất theo giấy phép J-11A tại Trung Quốc cùng với việc tự mình phát triển mẫu của loại máy bay này đã giúpTrung Quốc có những điều kiện thuận lợi để bắt đầu công tác nghiên cứu- thử nghiệm và thiết kế tiêm kích thế hệ 5. Nếu thực hiện thành công dự án này, Trung Quốc sẽ nằm trong tốp các cường quốc hàng không trên thế giới. Nguyên mẫu của máy bay thế hệ 5 J-20 được trình diễn lần đầu vào tháng 1/2011 trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ R,Gate ( lúc bấy giờ). Theo quan điểm của các chuyên gia hàng không, vẻ bề ngoài và kết cấu bên trong của máy bay tiêm kích đa năng J-20 giống máy bay tiêm kích đa năng Nga MiG-MFI 1.42. Rất nhiều khả năng là các chuyên gia của Tập đoàn MiG khi tham gia dự án thiết kế FC-1 và J-10 đã để rò rỉ thông tin về MFI 1.42. Ngày 31/10/2012, mẫu máy bay tiêm kích thế hệ 5 hạng nhẹ J-31 ( tương tự F-35 Lightning của Mỹ) đã bay thử lần đầu tiên. Dự kiến J-31 sẽ được sử dụng để chiếm ưu thế trên không và để tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất và trên biển. Có thông tin cho rằng, Trung Quốc sẽ chế tạo các biến thể của J-31 cho các tàu sân bay. (theo nhiều chuyên gia , J-31 sao chép F-22 hai động cơ của Không quân Mỹ và F-35C của Quân đoàn Lính thủy đánh bộ Mỹ ). Đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc vẫn đang thương thảo với Nga để mua một lô 26 chiếc máy bay tiêm kích đa năng thế hệ 4++ Su-35 ( mẫu chuyển tiếp giữa Su-30 phiên bản mới nhất và máy bay tiêm kích thế hệ 5 trong tương lai T-50). Có nhiều thông tin chưa rõ ràng về thương vụ này nhưng nếu có được Su-35, Trung Quốc sẽ cùng một lúc giải quyết được 02 nhiệm vụ: một mặt- trước khi đưa vào trang bị J-20, nước này sẽ có một lực lượng không quân có thể đối đầu ngang ngửa với F-22 và F-35 của Mỹ và mặt khác – có thể sao chép kiểu máy bay gần với tiêu chí thế hệ 5 này của Nga.
Về không quân tiêm kích-ném bom, sau khi đưa ra khỏi trang bị các máy bay tiêm kích- ném bom (cường kích) Q-5 đã lạc hậu, loại máy bay tiêm kích – ném bom duy nhất còn lại của Không quân PLA là máy bay thế hệ 3+ JH -7 và một số biến thể của nó (đầu tiên mang tên H-7, ném bom, sau được đổi thành JH-7). Loại máy bay này được thiết kế và đưa vào trang bị trong thời kỳ Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác kỹ thuật-quân sự với Phương Tây. Vẻ bề ngoài, kết cấu bên trong và vũ khí của JH-7 rất giống với máy bay SEPECAT “Jaguar ”của Anh-Pháp hợp tác sản xuất. Mẫu thử nghiệm đầu tiên của loại máy bay này cất cánh lần đầu vào tháng 12/1988. (khi chế tạo radar cho máy bay, Trung Quốc ứng dụng các giải pháp kỹ thuật của radar AN/APQ 120 của Mỹ, mua động cơ Rolls-Royce “Spey” Mk.202 của Anh- đây là lần đầu tiên Trung Quốc không sử dụng động cơ của Liên Xô ( Nga) mà sử dụng động cơ Phương Tây. Trong quá trình thử nghiệm, nhiều JH-7 bị rơi vì hỏng hóc động cơ. Sau này Trung Quốc hợp tác với Anh sản xuất “Spey”Mk.202, còn gọi là WS-9. Cho đến tận năm 2003, Trung Quốc vẫn không thể tự ản xuất được “Spey”. Năm 2001, nước này đã phải mua 90 “Spey” được tháo dỡ từ các máy bay F-4K của Anh . JH -7 cũng là máy bay đầu tiên của Trung Quốc được trang bị thiết bị tiếp dầu trên không,nó có thể mang 3 thùng dầu phụ ( mỗi thùng 800 hoặc 1.400 l). Năm 2003, sau khi được cải tiến đáng kể, các máy bay loại này ( có tên là Block 2) được đưa vào biên chế cho Không quân PLA. Biến thể hiện đại nhất củaJH-7 là JH -7A , nó có thể sử dụng vũ khí chính xác cao và có mặt trong trang bị của các đơn vị trực chiến Không quân PLA từ năm 2004. Về khả năng tác chiến, JH-7A tương tự như “Panavia Tornado” (JH-7A bay thử nghiệm lần đầu năm 1998, phiên bản xuất khẩu được đặt tên là FBC-1). Tuy nhiên, JH-7A không thể đối đầu với các máy bay tiêm kích hiện đại. Loại máy bay này đã tham gia vào hầu hết các cuộc tập trận của Tổ chức hợp tác Thượng Hải “Sứ mệnh hòa bình ” , kể cả cuộc tập trận mới nhất tháng 8/2013. ( vũ khí của JH-7A: tên lửa Nga KH-29L và KH-29T lớp “không đối đất” – năm 2002, Trung Quốc mua 2.000 tên lửa loại này của Nga lấy từ các kho và tên lửa LT-2 tương tự do Trung Quốc tự sản xuất, bom có điều khiển KAB-500 các loại của Nga ). Binh chủng này chỉ có một kiểu máy bay trinh sát duy nhất là JZ-8F. Năm 2012, Không quân PLA có 99 chiếc máy bay kiểu này. Ngoài ra, còn có 8 máy bay radar cảnh giới từ xa và điều khiển, cụ thể là 04 chiếc KJ-2000 và 04 chiếc KJ-200. Các máy bay KJ-200 được cải hoán từ các máy bay vận tải quân sự IL-76MD của Nga.
Về Không quân ném bom, Không quân ném bom là lực lượng tấn công chủ yếu của Không quân PLA. Sau khi loại khỏi trang bị các máy bay ném bom chiến trường JH-5 ( bản copy máy bay Xô Viết IL-28), loại máy bay ném bom duy nhất còn lại trong biên chế của Không quân Trung Quốc là máy bay ném bom tầm trung JH-6 ( có thể tạm xếp vào loại máy bay ném bom tầm xa). Nhưng JH-6 không được tiếp tục sản xuất vì nó không thể vượt qua được hệ thống Phòng không hiện đại để mang bom tới mục tiêu . Một phần JH-6 các biến thể khác nhau đã được cải tiến để làm máy bay tiếp dầu. Khi Trung Quốc bắt đầu thiết kế các loại tên lửa có cánh với các chức năng khác nhau, nước này sử dụng JH-6 với chức năng máy bay mang tên lửa , nó có thể phóng tên lửa mà không bay vào khu vực Phòng không và vào khu vực hoạt động của các máy bay tiêm kích đối phương tiềm năng . Ở biến thể chống tàu, H-6 có thể tấn công các tàu nằm trong thành phần của một cụm tàu tấn công. Năm 2006, Trung Quốc bắt đầu xuất xưởng hàng loạt máy bay chống hạm JH-6M. Các máy bay này được trang bị radar “ 245” và 4 móc treo tên lửa có cánh chống hạm Ỵ-83/Ỵ-62 ( C803/C602). Theo một số nguồn tin thì máy bay kiểu này được trang bị hệ thống bám địa hình nhằm vượt qua hệ thống phòng không vì có khả năng bay ở độ cao cực thấp. Để tăng bán kính tác chiến, tại khoang chứa bom có đặt thêm thùng dầu phụ . Phiên bản H-6H có thể đã được trang bị 02 tên lửa có cánh chống hạm KD-63 hoặc sẽ là tên lửa đang được thiết kế KD-88. Tháng 1/2007, chiếc máy bay mang tên lửa có cánh mới nhất JH-6K với 6 móc treo tên lửa dưới cánh lần đầu tiên. Nhờ lắp 02 động cơ turbin phản lưc Nga D-30KP-20 do Nhà máy “Saturn” sản xuất , bán kính tác chiến của H-6K được tăng lên đáng kể (đến 3.500 km), trọng lượng tác chiến cũng được tăng lên nhiều. Biến thể mang tên lửa JH-6K và JH-6M được sử dụng để thực hiện 02 nhiệm vụ chủ yếu: Tấn công bằng vũ khí hạt nhân các mục tiêu chiến lược nằm trong khu vực chiến trường; tiêu diệt các cụm tàu tấn công của Hải quân Mỹ ở tuyến tiếp cận từ xa lãnh hải Đài Loan. Bên cạnh đó, Không quân Trung Quốc cũng tính tới phương án sử dụng JH-6K và JH-6M tấn công với đội hình từ 01 phi đội đến 01 trung đoàn. Đảm bảo cho hoạt động tác chiến của chúng sẽ là các máy bay radar phát hiện sớm và các máy bay gây nhiễu . Việc phóng các tên lửa có cánh sẽ được tiến hành bên ngoài khu vực phòng không và khu vực hoạt động của Không quân tiêm kích đối phương. Đến cuối năm 2012, trong trang bị của Không quân Trung Quốc có 82 chiếc H-6 các biến thể mới nhất. Song song với việc hiện đại hóa và phát triển H-6 , các chuyên gia Trung Quốc đang đẩy mạng công tác khoa học- nghiên cứu -thiết kế- thử nghiệm để chế tạo máy bay mang tên lửa thế hệ mới H-8 và H-10. Theo thông tin của các chuyên gia Mỹ thì cả 02 loại máy bay ném bom này sẽ ứng dụng rất nhiều công nghệ của máy bay Mỹ B-2 Spirit và F-117. Có 3 cách mà Trung Quốc đã sử dụng để có được các thông tin về công nghệ này : 1/ Công nghệ tàng hinh “Stealth” qua các tài liệu và mẫu mà các gián điệp Trung Quốc thu thập được.2/ đột nhập ăn cắp tài liệu thiết kế B-2 qua mạng và 3/ Nghiên cứu các mảnh của chiếc máy bay tàng hình F-117 mà Phòng không Nam Tư bắn rơi và sau đó được chuyển giao cho phía Trung Quốc.
Về Không quân vận tải, đến giữa năm 2012, Không quân vận tải Trung Quốc có hơn 320 máy bay. So với năm 1995 – năm có số lượng máy bay vận tải lớn nhất ( 600 chiếc) thì số lượng máy bay vận tải của Không quân PLA đã giảm 280 chiếc ( đã thanh lý các máy bay thế hệ 1 và thế hệ 2 như “An-12”, “Li-2”, “Il-14”,”Il-18” Xô Viết, “Bae Trident1E/2E”của Mỹ ) . Hiện nay, trong biên chế của Không quân vận tải Trung Quốc chủ yếu là các máy bay của Nga và của Trung Quốc tự sản xuất: máy bay vận tải hạng nặng Il-76 – 10 chiếc , Y-8 các biến thể khác nhau -53 chiếc; máy bay vận tải hạng trung – Tu-154 – 12 chiếc ., Tu-154MD-4 chiếc ; máy bay vận tải hạng nhẹ: Y-11 – 20 chiếc, Y-12 -8 chiếc , Y-5 -17 chiếc. Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến việc tăng số lượng máy bay vận tải hạng nặng , máy bay vận tải đa năng và các máy bay chuyên dụng tự thiết kế và sản xuất. Để có thể sản xuất các máy bay kiểu này, Trung Quốc đã mời các chuyên gia của Tập đoàn hàng không O.K Antonov ( Ukraine) để hỗ trợ kỹ thuật trong thiết kế máy bay vận tải hạng năng Y-9. Các tính năng bay và kỹ- chiến thuật của Y-9 vượt hẳn các tính năng tương tự của Y-8 ( loại máy bay 4 động cơ WJ-6C đang có trang bị của Không quân Trung Quốc và xuất khẩu ) ,kể cả C-130” Hercules” của Mỹ. Các nhà thiết kế Trung Quốc cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thế tạo các máy bay vận tải quân sự sử dụng động cơ turbo phản lực đồng trục . Lần thử nghiệm mẫu đầu tiên máy bay vận tải hạng nặng Y-20 được tiến hành ngày 26/1/2013. Kiểu máy bay mới này của Trung Quốc có trọng lượng cất cánh hơn 200 tấn, chở được 66 tấn hàng , chiều dài 47m, sải cánh 45m ,cao 15m. Kết cấu và hình dạng bên ngoài có nhiều nét giống Boeing C-17 Globemaster của Mỹ và IL-76 của Nga . Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng Phương Tây , có tin là mẫu cánh của Y-20 và công nghệ sản xuất cánh máy bay được các chuyên gia của Tập đoàn “Antonov” chuyển giao cho Trung Quốc. Còn theo các chuyên gia quân sự Nga thì Y-20 là kết quả ứng dụng các nghiên cứu trong dự án chế tạo máy bay vận tải hạng nặng Xô Viết An-170 ( nhưng không thực hiện được- nhưng không hiểu sao Trung Quốc lại có được các nhiên cứu này). Các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc đã“ tự khoe” là kiểu máy bay vận tải mới này của Trung Quốc có các tính năng chủ yếu tương tự và vượt máy bay Il-76MD-90A của Nga. Các nhà thiết kế Trung Quốc cũng đang tích cực nghiên cứu chế tạo các động cơ turbo phản lực đồng trục với lực đẩy lớn hơn như WS-18 và WS-20. Trước khi hoàn thành công tác nghiên cứu thử nghiệm và cho xuất xưởng các động cơ này, Y-20 vẫn sử dụng động cơ D-30LP2 của Nga .
Về vũ khí cho máy bay, Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để tự thiết kế và sản xuất các loại tên lửa có cánh lớp “ không đối không” khi các chuyên gia nước này được phép tiếp cận với quy trình sản xuất vũ khí tên lửa tại Trung Quốc theo giấy phép của Nga cho máy bay tiêm kích Su-27 và khi mua máy bay tiêm kích đa năng Su-30MKK và Su-30MK2- là những kiểu máy bay được trang bị tên lửa có cánh lớp “không đối không” R-27R1 (ER1), R-27P (EP), R-27T1 (ET1), R-72E và RVV-AE (R-77). Sau khi “ nghiên cứu” các công nghệ Phương Tây và công nghệ Nga, các nhà khoa học và kỹ sư Trung Quốc đã chế tạo một loạt các tên lửa có cánh tầm gần, tầm trung và tầm xa như PL-5 với các biến thể A,D,C,E có các tính năng tương tự như tên lửa có cánh AIM-9H, AIM-9L hoặc AIM-9P,PL8 của Mỹ. Điểm khác biệt của nó là nhiên liệu khi bị đốt cháy không có khói nên rất khó phát hiện tên lửa bằng mắt thường khi phóng . Lớp tên lửa có cánh tầm xa của Trung Quốc là PL-11 và phiên bản cải tiến là PL-11B có đầu radar tự dẫn chủ động ARM-1 và PL-12 các biến thể khác nhau. PL- 12 có tầm bắn đến 60-80km.Các biến thể của của PL-12 là PL12B/C/D . Biến thể mới nhất PL12D là hoàn thiện hơn cả- nó là tên lửa có cánh với radar tự dẫn chủ động rất thích hợp cho việc bố trí bên trong máy bay thế hệ 5 trong tương lai theo công nghệ tàng hình “Stealth”. Lớp tên lửa có cánh tầm xa là các tên lửa đa năng “không đối không” và “chống radar” PL-15. Chúng có kích thước, trọng lượng tương đương biến thể mới nhất của PL-12 – có đầu tự dẫn chủ động-thụ động và thiết bị đảm bảo liên lạc hai chiều để trao đổi số liệu với máy bay mang. Cự ly bắn tối đa của tên lửa này gần 100km. Hiện nay, các nhà thiết kế Trung Quốc đang hoàn thiện tên lửa có cánh siêu xa PL-21 với động cơ phản lực phụt thẳng nâng tầm bắn lên 150-200 km. Vũ khí không quân lớp “ không đối đất” được trang bị cho các máy bay tiêm kích đa năng J-11B là tên lửa có điều khiển KD-88 ( phát triển từ tên lửa có cánh cùng lớp của Nga KH-29TE) . Các phương tiện để tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất là bom rơi tự do và bom có điều khiển trọng lượng đến 500 kg điều khiển bằng lazer và bom cassette – chúng được trang bị cho J-11. Vũ khi tên lửa của Không quân ném bom là các tên lửa chống hạm Ỵ-6 (C-60 1) KD-63, C-301, C-101, YJ -82, YJ-83/YJ-62 (C803), C-602 – chúng được trang bị cho các máy bay ném bom tầm xa H-6 các biến thể mới nhất. Các chuyên gia Trung Quốc cũng đặc biệt chú ý việc chế tạo tên lửa có cánh cho máy bay có các chức năng khác nhau . Loại tên lửa có cánh hiện đại nhất trong số đó là CJ-10A có tầm bắn 2.500 km . Tên lửa này có thể mang đầu đạn hạt nhân.
Về huấn luyện tác chiến, Không quân PLA đã chuẩn hóa các chương trình huấn luyện cho các Học viện không quân, các trường đào tạo phi công cũng như các khóa tập huấn nâng cao trình độ phi công. Theo các chương trình này, thời gian dành cho huấn luyện bay cũng như các nội dung huấn luyện các bài tập chiến thuật trong mỗi lần xuất kích được tăng thêm nhiều so vói các chương trình trước đó. Số lượng các máy bay huấn luyện và huấn luyện- tác chiến trong Không quân PLA hiện nay tăng 2,5 lần so với năm 2005. PLA đang sử dụng nhiều máy bay huấn luyện-tác chiến L-15 ( được thiết kế cùng các chuyên gia Nga). Thời gian bay huấn luyện của các phi công của các đơn vị không quân tiêm kích, tiêm kích- ném bom và ném bom đạt 150 giờ/năm ( phi công Nga -140 giờ, còn phi công Mỹ -180 giờ , số liệu mới nhất) , còn không quân vận tải –hơn 200 giờ/năm . Bên cạnh đó, khối lượng các bài tập trong mỗi chuyến bay cũng tăng thêm . Nếu trước kia thường chỉ một – hoặc hai nhiệm vụ huấn luyện , thì nay là 3 đến 4 nhiệm vụ huấn luyện được thực hiện trong mỗi lần xuất kích. PLA cũng tận dụng mọi cơ hội trong các cuộc tập trận chung của Tổ chức hợp tác Thượng Hải và các cuộc tập trận song phương để nâng cao kỹ năng tác chiến cho phi công . Trong tất cả các cuộc tập trận “ Sứ mệnh hòa bình” của Tổ chức hợp tác Thượng Hải từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc đều cử các đơn vị không quân tham gia , kể cả các máy bay lên thẳng của Lục quân Z-9 và Mi-17 , các đơn vị máy bay tiêm kích – ném bom JH-7A “Flying Leopard”.
Về bố trí các căn cứ không quân, Không quân PLA có nhiều sân bay – tổng cộng có hơn 400 sân bay. Thường là tại mỗi sân bay có 01 trung đoàn không quân,- ở một số ít sân bay – cỡ một sư đoàn chủ yếu là các máy bay cùng loại . Mục đích là để giảm tải công tác bảo dưỡng kỹ thuật và chuẩn bị bay. Một căn cứ không quân thường có 01 sân bay chính và từ 2 đến 3 sân bay dự bị để phân tán lực lượng trong trường hợp bị tấn công. Do có một mạng lưới sân bay phát triển, đảm bảo khả năng cơ động lực lượng và phương tiện của Không quân, Trung Quốc hiện nay đã có thể đạt được ưu thế gấp 2 lần về số lượng máy bay trước bất kỳ một đối phương tiềm năng nào và ở bất kỳ hướng chiến lược nào dọc biên giới Trung Quốc.