Bên lề Hội nghị BRICS, Tổng thống Nga V.Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhất trí tăng cường hợp tác quan hệ giữa hai nước hơn nữa, nhằm đối phó tốt đối với những khó khăn, thách thức hai nước đang gặp phải.
Theo thông tin trên, tại cuộc gặp, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh rằng trong thời đại mới “hai bên cần tiếp tục nỗ lực, không ngừng sáng tạo, đưa ra biện pháp mới căn cứ sự phát triển của mỗi nước và nhu cầu hợp tác của hai nước nhằm thúc đẩy quan hệ Trung – Nga để “duy trì đà phát triển tích cực và lành mạnh, mang lại lợi ích tốt hơn cho hai dân tộc, có lợi cho khu vực và thế giới”; cho rằng hai bên cần tiếp tục mở rộng quy mô thương mại song phương; nhấn mạnh dự án đường ống khí đốt Trung – Nga tuyến phía Đông sắp được đưa vào hoạt động và dự kiến nhiều dự án hợp tác giữa hai nước mang tầm chiến lược trong lĩnh vực năng lượng sẽ tiếp tục được triển khai thực hiện.
Tổng thống Putin khẳng định trong tình hình hiện tại, hai bên cần tiếp tục duy trì trao đổi chiến lược chặt chẽ và ủng hộ nhau trong bảo vệ chủ quyền, an ninh và quyền lợi phát triển. Phía Nga sẽ tăng thêm quy mô trao đổi thương mại song phương, đẩy nhanh kết nối, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, hàng không vũ trụ, hàng không, năng lượng, tài chính, giao lưu nhân dân… và sẽ tăng xuất khẩu khí đốt sang Trung Quốc.
Liên quan quan hệ Trung – Nga, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng (20/11) cho biết, Trung Quốc và Nga sẽ tăng cường ủng hộ lẫn nhau và tích cực triển khai hợp tác chống can thiệp. Ông Cảnh Sảng cho biết, “Trung Quốc và Nga có lợi ích và nhu cầu chung về mặt bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, giữ gìn ổn định và trật tự xã hội, phản đối sự can thiệp của nước ngoài, hai bên sẽ căn cứ nhận thức chung đạt được giữa Nguyên thủ hai nước, bất di bất dịch sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung-Nga trong thời đại mới, triển khai hơn nữa giao lưu học hỏi lẫn nhau, tăng cường ủng hộ lẫn nhau, tích cực triển khai hợp tác chống can thiệp, giữ gìn tốt lợi ích chung của hai nước và hoà bình, an ninh trong khu vực nói riêng, cũng như thế giới nói chung. Hiện nay, cá biệt nước một mực thi hành chủ nghĩa đơn phương, ráo riết thực thi hành động bắt nạn, không ngừng can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước khác, mang lại nhiều nhân tố không ổn định và không xác định cho tình hình quốc tế”.
Trung Quốc và Nga đã nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện từ năm 2011. Việc Bắc Kinh và Moscow tìm đến nhau có thể được lý giải do sức ép ngày càng tăng từ Mỹ và phương Tây đối với cả hai. Kể từ năm 2010, Trung Quốc đã phải đối mặt với áp lực lớn hơn từ Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương do chính sách tái cân bằng của chính quyền cựu Tổng thống Obama và giờ đây là sức ép chiến tranh thương mại dưới thời Tổng thống Donald Trump. Việc Nga xoay trục sang châu Á đã khiến phương Tây và Mỹ lo ngại trong bối cảnh cuộc khủng hoảng ở Ukraine đã khiến mâu thuẫn Nga và phương Tây càng trầm trọng. Chính các biện pháp trừng phạt của phương Tây sau sự kiện nước này sát nhập bán đảo Crimea, giá dầu giảm, đồng rouble suy yếu, tình hình kinh tế ảm đạm đã khiến Nga tìm kiếm một đối tác kinh tế vững mạnh như Trung Quốc. Nhu cầu tìm kiếm đồng minh tự nhiên là có thể lý giải được khi đánh giá về các toan tính chiến lược của Bắc Kinh và Moscow.
Trên thực tế, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Trung Quốc và Nga được thúc đẩy phát triển ổn định. Trung Quốc đã duy trì vị thế là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong 8 năm liên tục. Năm 2018, kim ngạch thương mại Trung – Nga đạt 108,284 tỷ USD, tăng 24,5% so với cùng kỳ, chiếm 15,6% tổng kim ngạch ngoại thương của Nga. Xét từ kết cấu thương mại, do Trung Quốc và Nga tích cực mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực như tài chính, đầu tư, thương mại điện tử xuyên biên giới…, kết cấu thương mại song phương đã liên tục được cải thiện, chất lượng hợp tác kinh tế thương mại được cải thiện đáng kể. Tuyên bố chung về hợp tác kết nối xây dựng Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa trên biển và Liên minh kinh tế Á-Âu ký năm 2015 đã đưa hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga lên một tầm mức mới, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại chủ yếu của Liên minh kinh tế Á-Âu do Nga giữ vai trò chủ đạo; năm 2018 kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Liên minh kinh tế Á-Âu tăng 23% so với cùng kỳ, chiếm 16,76% trong kim ngạch ngoại thương của Liên minh kinh tế Á-Âu. Hợp tác chiến lược quốc tế giữa Bắc Kinh và Moscow cũng ngày càng chặt chẽ. Trong nhiều năm qua, trước những thay đổi to lớn của cục diện quốc tế và trật tự thế giới, Trung Quốc và Nga luôn duy trì sự liên lạc chặt chẽ và hợp tác xung quanh các vấn đề quốc tế và khu vực quan trọng, trong các cơ chế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO), Cơ chế hợp tác BRICS, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC).
Về giao dịch khí tài quân sự, theo dữ liệu của Bộ Quốc phòng Nga, năm 2016, doanh thu của Nga là hơn 3 tỷ USD trong khi hiện nay, Trung Quốc đã chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu vũ khí của Nga, tương đương khoảng 15 tỷ USD/năm trong một vài năm gần đây. Theo các thông tin chính thức, hiện có 3 hợp đồng lớn chuẩn bị triển khai là thương vụ mua hai trung đoàn hệ thống tên lửa đất đối không (SAM) S-400, một trung đoàn máy bay chiến đấu Su-35 (gồm 24 chiếc) và một dự án phát triển tên lửa chống hạm có khả năng được sản xuất chung cùng hệ thống YJ-18 của Trung Quốc.
Đáng chú ý, hiện giới chức Trung Quốc đang nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh năng lượng khi thảo luận về quan hệ song phương. Kể từ năm 2016, Nga đã thay thế Saudi Arabia trở thành nhà cung cấp dầu thô lớn nhất cho Trung Quốc. Hợp tác năng lượng Trung – Nga cũng có vai trò quan trọng để Trung Quốc hội nhập sâu vào hệ thống năng lượng toàn cầu thông qua các dự án cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ BRI. Các tuyên bố mới nhất của lãnh đạo hai nước cho thấy ý muốn thực sự của hai bên trong việc nâng tầm quan hệ song phương trong tình hình cả hai đều đang phải đối mặt với sức ép ngày càng lớn từ Mỹ và phương Tây. Tuy nhiên, việc đi sâu vào các nội dung hợp tác cụ thể cần phải có thời gian cũng như ý định chiến lược thực sự của hai nước vẫn có những quan điểm tách biệt thậm chí đối kháng nhau trong các không gian địa chính trị. Mặt khác, dù có thể liên minh này chỉ mang tính tình thế trong một giai đoạn nhất định nhưng các ảnh hưởng của nó đến cục diện các khu vực tại châu Á và châu Âu cũng sẽ rất lớn bởi đây là hai cường quốc với sức mạnh quân sự, kinh tế và chính trị khó bị thách thức.
Về vấn đề Biển Đông, trong những năm gần đây, nhiều nước lớn trên thế giới tích cực thể hiện thái độ quan ngại về tình hình căng thẳng ở Biển Đông và triển khai nhiều biện pháp thiết thực góp phần đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực. Nhưng Nga với tư cách là một nước lớn, có lợi ích ở Biển Đông lại hạn chế thể hiện quan điểm của mình liên quan vấn đề này. Có những đồn đoán cho rằng Nga đã bị Trung Quốc mua chuộc, thao túng, song nhìn một cách tổng quát Nga vẫn giữ vững lập trường và đang cân bằng lợi ích trong vấn đề Biển Đông. Lãnh đạo cấp cao của Nga nhiều lần đưa ra các tuyên bố khẳng định chủ trương, chính sách trung lập, không đứng về bên nào trong tranh chấp ở Biển Đông. Tổng thống Nga V.Putin khẳng định lập trường của Nga là cần giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, đồng thời tuyên bố ủng hộ ASEAN và Trung Quốc sớm đàm phán, ký kết thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Trước đó, Chủ tịch Duma Quốc gia Nga S.Naryshkin cũng cho biết lập trường của Nga là trước sau như một, kêu gọi các bên liên quan sử dụng biện pháp hòa bình, tôn thủ luật pháp quốc tế để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Trong khi đó, Ngoại trưởng Nga S.Lavrov nhấn mánh Nga “chưa bao giờ là một bên trong các tranh chấp ở Biển Đông” và coi “việc không đứng về phía bất kỳ bên nào là một nguyên tắc rõ ràng”. Trước đó, Đại sứ Nga tại Việt Nam K.Vnukov cho rằng Nga quan tâm lợi ích trong việc đảm bảo tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông, nhấn mạnh việc xảy ra xung đột hoặc quân sự hóa trong khu vực sẽ gây nguy hiểm cho lợi ích của các công ty dầu khí của Nga hoạt động trên thềm lục địa của Việt Nam (công ty Rosneft, Gazpron, liên doanh Vietsopetro).
Theo nhận định của giới chuyên gia, Nga không muốn can dự sâu vào tranh chấp Biển Đông là để cân bằng lợi ích và tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, thách thức từ trong nước. Thứ nhất, trong bối cảnh nền kinh tế Nga đang gặp nhiều khó khăn, xung đột quyền lợi với phương Tây ngày càng sâu sắc và Nga đang bị chi phối, ảnh hưởng trong vấn đề Syria, Ucraina khiến tranh chấp Biển Đông không được ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Nga. Thứ hai, tranh chấp Biển Đông rất phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề (chủ quyền, kiểm soát thực tế, quân sự hóa, cải tạo đảo, đá, quản lý tài nguyên và tự do hàng hải) và liên quan đến nhiều đối tác của Nga ở trong khu vực, khiến nước này không thể công khai tất cả chủ trương, chính sách, quan điểm liên quan vấn đề Biển Đông, nhằm tránh bị các nước lôi kéo vào tranh chấp chủ quyền trong khu vực. Thứ ba, Nga cũng muốn lợi dụng tranh chấp Biển Đông để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp quân sự, bán các trang thiết bị, khí tài quân sự cho các nước trong khu vực Biển Đông; đồng thời thông qua các hoạt động hợp tác, giao lưu quân sự để kiềm chế các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông. Thứ tư, Nga đang tìm cách cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Nga không muốn vì vấn đề Biển Đông để ảnh hưởng đến quan hệ với các nước liên quan. Gần đây, quan hệ Nga và Việt Nam đang ngày càng được cải thiện; hai nước cũng đã nâng cấp quan hệ lên hàng “đối tác chiến lược toàn diện” để thúc đẩy quan hệ song phương, trong đơ hợp tác về quân sự vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu. Theo Asia Times, Việt Nam hiện là thị trường nhập khẩu vũ khí lớn thứ 3 của Nga trên toàn thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Trung Quốc. Từ 2011 đến 2015, 93% lượng vũ khí của Việt Nam là do Nga cung cấp. Kể từ 2011, Việt Nam mua 129 hệ thống tên lửa và 36 máy bay cũng như 8 tàu hải quân của Nga. Trong khi đó, Nga và Trung Quốc hiện là đối tác chiến lược toàn diện; hai nước có nhiều thỏa thuận quan trọng về an ninh, quốc phòng, kinh tế. Ngoài ra, Nga và ASEAN cũng đang tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị.
Ngoài ra, quan hệ Nga – Trung Quốc đang ngày càng được thắt chặt và có tác động lớn đến quan điểm, lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc đang trở thành nhà nhập khẩu quốc phòng lớn nhất của Nga. Hai bên cũng đã ký các hợp đồng cung cấp khí đốt trị giá hàng tỷ USD. Mối liên hệ kinh tế quan trọng này tác động không nhỏ đến quan điểm của Nga về tranh chấp Biển Đông cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra, Nga cũng mong muốn giữ mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, cả trên phương diện chính trị lẫn kinh tế. Việc châu Âu và Mỹ đóng cửa thị trường tài chính đối với Nga đã buộc phần lớn các công ty lớn của Nga phải tìm đến với Trung Quốc, thị trường duy nhất có khả năng tài chính ngang ngửa với phương Tây. Bên cạnh đó, trong số các nước phản đối Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông còn có cả các đối thủ của Nga trên trường đối ngoại. Theo giáo sư Carl Thayer, Nga cần thị trường để xuất khẩu năng lượng, đặc biệt là khí đốt. Trung Quốc đã ký các thỏa thuận lớn để nhập khẩu khí đốt Nga và Bắc Kinh cũng là thị trường lớn nhập khẩu vũ khí và công nghệ Nga. Tuy nhiên, căng thẳng ở Biển Đông có ảnh hưởng đến lập trường Nga. Đầu tiên, Nga nói không đứng về bên nào trong tranh chấp và ủng hộ tự do hàng hải, hàng không và giải quyết hòa bình tranh chấp trực tiếp giữa các bên liên quan dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, Nga đồng thời phản đối bên thứ ba ngoài khu vực can thiệp vào tranh chấp. Bởi theo Tổng thống Nga V. Putin, “điều này sẽ chỉ làm tổn thương cách giải quyết vấn đề… gây bất lợi và phản tác dụng”. Nhưng hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông đe dọa đến tự do hàng hải, hàng không của các tàu thuyền và máy bay trong khu vực. Có thể hiểu là ông Putin ủng hộ tự do hàng hải đối với hải quân Nga nhưng không quan tâm nếu Trung Quốc gây khó dễ đối với Mỹ.