Nhiều chuyên gia về chính trị, đối ngoại và pháp lý uy tín tại các nước đã có những phát biểu thể hiện sự ủng hộ đối với lập trường, chính sách và ứng xử linh hoạt, phù hợp khi phát sinh vấn đề trên biển của Việt Nam trong giải quyết các tranh chấp Biển Đông hiện nay.
Giáo sư Carl Thayer từ Đại học New South Wales (Australia)
Giáo sư Carl Thayer cho rằng “để nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế về vấn đề Biển Đông, Việt Nam cần phải thể hiện sự chủ động và tích cực của mình, đặc biệt là trên mặt trận truyền thông để đưa thông tin chính xác về tình hình Biển Đông đến cộng đồng quốc tế. Việt Nam cần tận dụng sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong vấn đề Biển Đông”. Cần phải nói rằng chủ trương của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp với bất kỳ nước nào chứ không chỉ riêng Trung Quốc là đảm bảo nguyên tắc sử dụng các biện pháp hòa bình và không loại trừ bất kỳ một biện pháp nào mà luật pháp quốc tế cho phép. Cụ thể những biện pháp này nằm ở điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm: thương lượng ngoại giao, trao đổi quan điểm, sử dụng bên thứ 3 không ràng buộc, sử dụng trung gian hòa giải… Ngoài ra còn có các biện pháp tư pháp như tòa án, tòa trọng tài…
Giáo sư Luật hàng hải quốc tế James Kraska(Mỹ)
Giáo sư James Kraska cho rằng, Việt Nam cũng cần tiếp tục tăng cường năng lực quốc gia và đẩy mạnh việc hợp tác chặt chẽ về nhiều mặt với các đối tác có ảnh hưởng lớn trên thế giới để nhận được sự ủng hộ tích cực từ nhiều phía trong quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp của nước này ở Biển Đông thay vì phải đơn độc đối đầu với Trung Quốc. “Nếu Việt Nam có thể tiến hành các dự án thăm dò dầu khí ngoài khơi với các đối tác như Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản hay Australia, điều này sẽ gây tác động không nhỏ đến những toan tính của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông”, ông Kraska gợi ý.
Tiến sĩ Stanley Weeks từ Tập đoàn Ứng dụng Khoa học Quốc tế (Mỹ)
Tiến sĩ Stanley Weeks, Chuyên gia cao cấp tại Tập đoàn Ứng dụng Khoa học Quốc tế (SAIC) chuyên cung cấp thông tin và hỗ trợ công nghệ cho Chính phủ Mỹ có chung nhận định khi cho rằng Việt Nam có quan điểm rõ ràng và nhất quán trong việc chỉ rõ những hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có việc Bắc Kinh ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông và sử dụng vũ lực để o ép các nước khác. Điều này đi ngược lại với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Các biện pháp đối phó với Trung Quốc của Việt Nam cho đến thời điểm này là rất hiệu quả và Việt Nam rất biết lựa chọn thời điểm cụ thể để có cách hành xử thích hợp.
Giáo sư Leszek Buszynski từ Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng (Đại học Quốc gia Australia)
Giáo sư Leszek Buszynski cũng nhận định rằng “chiến lược của Việt Nam là linh hoạt trong mọi tình huống, bất cứ khi nào Trung Quốc có những động thái làm leo thang căng thẳng, Việt Nam sẽ có phản ứng thích hợp”. Ông Buszynski cho biết ông từng nói với rất nhiều người mà ông gặp tại Việt Nam rằng, “các bạn nên công khai vấn đề này và nói với thế giới về những gì đang diễn ra thay vì tiếp tục nhượng bộ Trung Quốc. Bằng cách này, Trung Quốc không thể tiếp tục thúc đẩy tham vọng của mình và cộng đồng quốc tế, trong đó có Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia có thể tham gia vào vấn đề này”.
Giáo sư John Rennie Short thuộc trường Đại học Maryland (Mỹ)
Giáo sư John Rennie Short cho rằng “Trung Quốc là quốc gia có tầm ảnh hưởng không nhỏ và có thể dễ dàng áp đặt quan điểm của nước này ra khắp khu vực và trên toàn thế giới. Chính vì thế, Việt Nam cần thông qua các hội thảo, diễn đàn khoa học bày tỏ chính kiến của mình chống lại những hành vi sai trái của Trung Quốc. Việt Nam cần đặc biệt nêu cao việc giải quyết những vấn đề còn tồn tại ở Biển Đông bằng cách đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật để chống lại những hành động đơn phương và phi pháp của Trung Quốc trong khu vực”.
Giám đốc tổ chức “Sáng kiến Minh bạch Hàng hải” Greg Poling (Mỹ)
Chuyên gia Greg Poling cho rằng Trung Quốc có thể ngang nhiên thực hiện những hành vi sai trái ở Biển Đông là bởi Trung Quốc tự tin vào tương quan lực lượng quá chênh lệch giữa Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực, chính vì thế, các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam cần tránh đối đầu trực tiếp với Trung Quốc bằng vũ lực. Thay vào đó Việt Nam có thể tính đến việc khởi kiện Trung Quốc. “Việt Nam có thể đe dọa khởi kiện Trung Quốc để buộc Trung Quốc phải tiến hành đàm phán theo hướng tích cực hơn với Việt Nam. Nếu Trung Quốc không chấp nhận đàm phán, Việt Nam hãy khởi kiện. Các biện pháp đàm phán song phương sẽ không có hiệu quả nếu Trung Quốc chỉ chăm chăm quan tâm đến lợi ích đơn phương của mình và không chịu nhượng bộ”, ông Poling đề xuất.