Trong những năm gần đây, “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông là một trong những chủ đề được giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế quan tâm. Tuy nhiên, hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông là mối quan tâm, lo ngại của tất cả các nước, nên về bản chất nó là một vấn đề quốc tế, không cần phải “quốc tế hóa”.
Biển Đông vốn là vấn đề quốc tế
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 600 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của châu Á – Thái Bình Dương và Mỹ.
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 – 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 – 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney – Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần.
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Australia, New Zealand; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Australia và New Zealand, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 – 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực. Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông. Ngoài ra, lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai – Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz).
Vấn đề quốc tế không cần “quốc tế hóa”
Tranh chấp trên Biển Đông không chỉ là vấn đề của khu vực Đông Nam Á, Tây Thái Bình Dương và châu Á – Thái Bình Dương, việc tranh chấp trên Biển Đông đã đưa vấn đề vượt ra ngoài phạm vi khu vực, thu hút sự quan tâm của các cộng đồng quốc tế có liên quan đến những tranh chấp này. Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nước lớn có lợi ích quốc gia ở Biển Đông (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga…) đang ngày càng tăng cường hiện diện trong khu vực để ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc và bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực, cũng như trên thế giới. Nhìn một cách tổng quan, tranh chấp Biển Đông đã tác động đến phân cực châu Á và thúc đẩy một cấu trúc cân bằng quyền lực mới ở châu Á – Thái Bình Dương; gia tăng căng thẳng trong khu vực Tây Thái Bình Dương; cộng đồng quốc tế liên tục đưa ra các biện pháp ngăn chặn, phản đối hành vi phi pháp ở Biển Đông. Không những vậy, Biển Đông còn là một trung tâm tranh chấp của thế giới về mức độ phức tạp, số lượng các bên tranh chấp và sự quan tâm lợi ích của các cường quốc. Biển Đông là khu vực đặc thù, chứa đựng tất cả các yếu tố liên quan như quốc gia ven biển, quốc gia quần đảo (Indonesia và Philippines), quốc gia không có biển hay bất lợi về mặt địa lý (Lào), các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, vùng đánh cá, phân định biển, vấn đề biển nửa kín, eo biển quốc tế, hợp tác quản lý tài nguyên sinh vật, các đàn cá di cư xa và đàn cá xuyên biên giới, khai thác chung, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, chống cướp biển, an toàn hàng hải, tìm kiếm, cứu nạn…
Theo đánh giá của giới chuyên gia, các tranh chấp trên biển ở Biển Đông không những chỉ ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nước có liên quan, mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác, đến hòa bình, ổn định và sự hợp tác phát triển của khu vực và thế giới. Vì vậy, các nước đặc biệt quan tâm, thúc đẩy, tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Biển Đông. Các hoạt động không tính đến lợi ích của nước khác tất sẽ đưa đến sự chú ý của dư luận và các động thái nhằm tìm kiếm sự cân bằng có lợi cho hòa bình và phát triển trong khu vực. Ngoài ra, một khi trong khu vực xảy ra căng thẳng, xung đột khiến các tuyến đường hàng hải bị cắt đứt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của các nước nhập khẩu dầu lớn, đồng minh của Mỹ như Nhật Bản và Hàn Quốc, đánh mạnh vào buôn bán thương mại giữa ASEAN với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Mỹ.
Giáo sư Nhật Bản Kazunime Akimoto khẳng định rằng tất cả các quốc gia Đông Á đều liên quan đến Biển Đông. Nếu khu vực này bị một quốc gia nào đó độc chiếm, tác hại không chỉ xảy ra cho khu vực mà cả cho an ninh toàn thế giới. Do tranh chấp Biển Đông đã trở thành một vấn đề quốc tế, theo nhiều nhà quan sát, công việc tìm giải pháp nên được quốc tế hoá. Quốc tế hoá không chỉ là đưa vấn đề ra các cuộc đàm phán đa phương, các định chế quốc tế, mà còn nhằm đánh động dư luận thế giới thông qua các Hội nghị hay diễn đàn thảo luận.
Trong hki đó, Phó Giáo sư Peter Dutton, Viện Nghiên cứu Biển Trung Hoa thuộc trường Chiến tranh Hải quân Mỹ cho rằng cách tiếp cận mang tính quốc tế hóa đối với vấn đề Biển Đông là phù hợp nhất lúc này vì có nhiều quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền và có lợi ích tại đây. Tiến trình quốc tế hóa có thể sẽ thất bại nếu Trung Quốc không sẵn lòng tham gia các cuộc hội thảo cũng như tìm kiếm các giải pháp quốc tế về tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu nhiều áp lực phải chứng tỏ mình là một nước láng giềng tốt đối với các quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, cũng như các nước không tuyên bố chủ quyền, nhưng có tiếng nói hữu ích, giúp giải quyết các bất đồng. Trung Quốc có thể từ chối tham gia giải quyết vấn đề, nhưng điều đó sẽ khiến họ tự biến mình thành người ngoài cuộc. Cho dù các cuộc đàm phán quốc tế không giải quyết được từng vấn đề như chủ quyền đối với các hòn đảo hay đường lãnh hải, nhưng ít ra các cuộc thương thuyết đó sẽ tìm ra cách đẩy nhanh tiến trình tìm giải pháp.
Cách nhìn phiến diện từ Trung Quốc
Trái với những gì cộng đồng quốc tế đánh giá, giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc đang tìm cách bôi lem chính sách Biển Đông của Việt Nam, cố tình xuyên tạc rằng việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông là sách lược ứng phó có định hướng đặc biệt trong chiến lược biển quốc gia của Việt Nam.
Giới học giả Trung Quốc cố tình xuyên tạc, bội nhọ chính sách biển đảo của Việt Nam và sự thật lịch sử cũng như quy định luật pháp quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với khu vực Biển Đông. Họ cho rằng chính sách Biển Đông của Việt Nam vừa bao gồm đòi hỏi đối với chủ quyền hải đảo, quyền lợi biển, vừa bao gồm sử dụng nguồn lực Biển Đông để thực hiện phát triển bền vững đất nước. Họ nhận định rằng Việt Nam cho rằng quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược phi pháp trước đây, hiện hai nước vẫn còn tồn tại tranh chấp ở quần đảo này; đồng thời Việt Nam cho rằng chủ quyền của 29 đảo san hô ở quần đảo Trường Sa mà họ kiểm soát thuộc về Việt Nam, không có tranh chấp với nước khác. Từ nhiều năm trước, sách lược cơ bản của Chính phủ Việt Nam ứng phó với tranh chấp Biển Đông là bảo vệ lợi ích vốn có, hạ giọng khi giải quyết tranh chấp, ngăn chặn ở mức tối đa việc Trung Quốc thay đổi nguyên trạng Biển Đông. Sách lược này bắt đầu thay đổi sau khi Việt Nam đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc, ý đồ “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông dần hình thành.
Xem xét tổng quan chiến lược “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông của Việt Nam, động cơ của sách lược này về đại thể chia làm hai cấp độ: Bảo vệ an ninh quốc gia và ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống. Về an ninh quốc gia, Việt Nam mong muốn liên kết với các nước lớn bên ngoài khu vực và thông qua các tổ chức quốc tế mang tính khu vực để gây sức ép với Trung Quốc, hình thành hợp lực về đối nội và đối ngoại để duy trì nguyên trạng khu vực Biển Đông. Còn những lĩnh vực an ninh phi truyền thống như đánh bắt quá mức, phòng chống thiên tai, cứu nạn trên biển, bảo vệ môi trường, buôn bán người…, do sức mạnh tổng hợp của đất nước có hạn, Việt Nam có khuynh hướng tăng cường sự tham gia của cộng đồng quốc tế, thông qua nhiều hình thức hợp tác đa phương để ứng phó với thách thức.
Đồng thời, chiến lược Biển Đông của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở xem xét toàn diện quan hệ với Trung Quốc. Chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc luôn theo chủ trương vừa hợp tác vừa đấu tranh, sách lược quốc tế hóa vấn đề Biển Đông thể hiện đầy đủ chủ trương đó. Việt Nam một mặt sử dụng sự can dự của thế lực quốc tế, phá bỏ ý tưởng mà Trung Quốc đưa ra là đàm phán riêng rẽ với từng nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Mặt khác, Việt Nam lại có thể tránh được đối đầu trực tiếp với Trung Quốc, đồng thời hình thành “kiềm chế mềm” mang tính thực chất đối với việc duy trì quyền lực của Trung Quốc. Trong quá trình quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, Việt Nam không những không từ bỏ đàm phán với Trung Quốc, ngược lại, lợi dụng nguồn gốc lịch sử của quan hệ hai đảng, hai quân đội để tích cực tiếp xúc với Trung Quốc. Ngoài ra, trong chiến lược ngoại giao của mình, Việt Nam còn từng tuyên bố nguyên tắc “ba không”, đó là không liên minh, không cho phép nước ngoài xây dựng căn cứ quân sự và không liên hết với nước khác gây chiến với nước thứ ba. Chính sách này giúp Việt Nam triển khai hợp tác quốc phòng với nước khác vừa phù hợp với tình hình ở Việt Nam, vừa không gây thiệt hại đến nguyên tắc ngoại giao quốc gia.
Hiện tại, Việt Nam đang khai thác các tài nguyên ở Biển Đông, đặc biệt là dầu mỏ, đã triển khai hợp tác khai thác dầu mỏ quy mô lớn với các công ty dầu khí Exxo Mobil của Mỹ, ONGC của Ấn Độ, Gazprom của Nga và một công ty dầu khí của Nhật Bản. Thông qua hợp tác với các công ty xuyên quốc gia, Việt Nam không những có thể giành được nhiều lợi ích kinh tế ở Biển Đông mà còn có thể tác động đến thái độ của các quốc gia có tuyên bố chủ quyền đứng sau họ trong vấn đề Biển Đông. Đồng thời, Việt Nam “lợi dụng” sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia ở Biển Đông để cung cấp “chỗ dựa” mang tính hợp pháp để các nước lớn bên ngoài khu vực can dự vào vấn đề Biển Đông. Ngoài ra, để củng cố và đảm bảo lợi ích biển hiện có, không bị ảnh hưởng tiêu cực từ hành động duy trì quyền lợi của Trung Quốc, Việt Nam còn “lợi dụng” các tổ chức quốc tế, tuyên truyền, “phóng đại” về các mối đe dọa mà họ phải chịu ở Biển Đông nhằm nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Những năm gần đây, từ hội nghị cấp cao ASEAN đến Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), rồi đến Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), cho đến Liên hợp quốc, đều được Việt Nam coi là mặt trận quốc tế hóa vấn đề Biển Đông.
Chiến lược “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông mà Việt Nam thúc đẩy có quan hệ chặt chẽ với chiến lược tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương mà Mỹ bắt đầu thực hiện từ năm 2009. Chính phủ Mỹ tiếp tục tuyên bố họ có lợi ích quan trọng ở khu vực Biển Đông, trong đó có tự do hàng hải và ổn định khu vực Biển Đông. Chính sách Biển Đông của Mỹ phù hợp tự nhiên với tính toán của Việt Nam giữ nguyên trạng Biển Đông. Thông qua tăng cường hợp tác với các nước lớn bên ngoài khu vực như Mỹ, Việt Nam không những có thể tránh đơn phương đối đầu với Trung Quốc, giảm bớt gánh nặng ngân sách và kinh tế của Việt Nam, mà còn có thể thu được lợi ích thiết thực như sự ủng hộ về đạo lý và hỗ trợ về vật chất. Đồng thời, triển khai hợp tác quốc phòng với các nước bên ngoài khu vực còn giúp nâng cao ảnh hưởng quân sự của Việt Nam ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mở rộng quyền phát ngôn chính trị của họ.
Nhìn chung, cách nhìn phiến diện của Trung Quốc là chuyên “cơm bữa” và điều này hoàn toàn không thể tác động đến xu hướng chung của cộng đồng quốc tế. Thời gian tới, các nước có lợi ích trong khu vực, nhất là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Đô, Anh, Pháp, Đức, Australia… sẽ tiếp tục thể hiện sự quan tâm đến diễn biến tình hình Biển Đông, cũng như lên án, phản đối các hành động phi pháp của Trung Quốc.