Trong đề xuất ngân sách cho năm tài khóa 2021, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đề xuất dành một khoản trị giá 1,5 tỷ USD trong ngân sách tài khóa 2021 cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Trong đề xuất ngân sách cho tài khóa 2021, bắt đầu từ ngày 1/10/2020, Nhà Trắng khẳng định: “Tương lai của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi chiếm gần một nửa dân số thế giới và có nhiều nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất, rất quan trọng đối với an ninh và các lợi ích kinh tế lâu dài của Mỹ. Ngân sách cung cấp 1,5 tỷ USD cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, phản ánh cam kết mạnh mẽ của chính quyền nhằm đảm bảo khu vực này tự do, rộng mở và không phụ thuộc vào ảnh hưởng xấu của Trung Quốc”. Cũng theo tuyên bố, khoản ngân sách này sẽ hỗ trợ các chương trình dân chủ, tăng cường hợp tác an ninh, nâng cao năng lực quản trị kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do khu vực tư nhân đứng đầu. Ngân sách cũng bao gồm 30 triệu USD chi cho trung tâm can dự toàn cầu chuyên chống lại hoạt động tuyên truyền phi nhà nước và nước ngoài cũng như thông tin sai lệch từ Trung Quốc. Ngân sách dành 800 triệu USD cho Tập đoàn tài chính phát triển quốc tế (DFC) phát triển khu vực tư nhân trên phạm vi quốc tế. Mục đích là hỗ trợ tăng trưởng doanh nghiệp ở các nước kém phát triển và cung cấp một giải pháp thay thế minh bạch, chất lượng cao cho chương trình vay tiền quốc tế của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cùng các khu vực chiến lược khác.
Đáng chú ý, trong đề xuất ngân sách, Bộ Quốc phòng Mỹ cáo buộc Bắc Kinh tiếp tục vi phạm chủ quyền của các quốc gia Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và mở rộng quyền kiểm soát ở nước ngoài dưới vỏ bọc đầu tư cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ Sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Đây được xem như một phần trong nỗ lực của Washington nhằm đảm bảo khu vực này tự do, rộng mở và không phụ thuộc vào ảnh hưởng xấu của Trung Quốc.
Khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương bao gồm vùng biển phía Bắc Ấn Độ Dương và toàn bộ vùng biển giữa Thái Bình Dương, kéo dài đến bờ Tây Mỹ, trong đó Biển Đông nằm ở vị trí trung tâm. Đối với chính quyền Tổng thống Donanld Trump, khu vực “dân cư đông đúc nhất và năng động nhất hành tinh về mặt kinh tế” này là nơi cạnh tranh của hai quan điểm đối kháng, một bên cổ vũ cho “tự do”, “dựa trên luật pháp quốc tế”, bên kia chủ trương dùng “vũ lực”. Washington chỉ đích danh Trung Quốc như là bên chủ trương dùng vũ lực để thao túng con đường hàng hải chiến lược, với việc “thúc đẩy quân sự hóa tại Biển Đông”, thách thức chủ quyền của nhiều quốc gia ven bờ.
Để bảo vệ lợi ích của mình, Mỹ đã đưa ra Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Trong đó bao hàm một số nội dung: (1) Quá trình chuyển dịch quyền lực đang diễn ra rất mạnh mẽ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; sự phân bổ lại quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng đang làm thay đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng, gây lo ngại đối với hầu hết các nước lớn. (2) Sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, nội bộ Mỹ, nhất là chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã chỉ trích mạnh mẽ chính sách “kiên nhẫn chiến lược” của người tiền nhiệm và Đảng Dân chủ; cho rằng các chính quyền Mỹ trước đây đã không làm đủ mạnh để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Do vậy, chính quyền mới của Mỹ hiện nay đã điều chỉnh cách tiếp cận, từ “kiên nhẫn chiến lược” và “tích cực can dự nhằm thay đổi hành vi của Trung Quốc” sang “cạnh tranh trực diện về mọi mặt”. Trong NSS và NDS, Mỹ xác định cả Trung Quốc lẫn Nga đều là các “cường quốc xét lại”, thách thức sức mạnh, ảnh hưởng và các lợi ích của Mỹ trên nhiều phương diện, như tuyên truyền, công nghệ, kinh tế và quốc phòng. (3) Trong bối cảnh trào lưu dân túy đang trỗi dậy mạnh mẽ, các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump gây lo ngại sâu sắc trong số các đồng minh, đối tác của Mỹ ở khu vực, như Nhật Bản và Australia. Ông Donald Trump đã không ít lần đề cập tới khả năng rút quân Mỹ ở Hàn Quốc về nước hoặc gây sức ép buộc các nước này phải gánh thêm chi phí quốc phòng. Do vậy, các nước này đã chủ động điều chỉnh chính sách để tìm cách kéo Mỹ ở lại khu vực, gia tăng vai trò và hình thành các liên kết, tập hợp lực lượng mới có lợi cho mình. (4) Do Ấn Độ có vai trò rất quan trọng ở khu vực (cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương), quan hệ Nhật Bản – Ấn Độ, Mỹ – Ấn Độ đang ngày càng “nồng ấm”… Hai bên cũng chia sẻ nhiều quan điểm, lập trường chung, nhiều lợi ích chung to lớn nên Mỹ và Nhật Bản đều muốn lôi kéo Ấn Độ để gia tăng đối trọng với Trung Quốc ở trên toàn tuyến. Trong khi đó, do bố trí lực lượng của Mỹ và đồng minh từ khu vực Nam Đài Loan tới châu Đại dương còn khá mỏng, nên Mỹ và Nhật Bản có xu hướng muốn lôi kéo cả Australia và các nước có quan điểm, lập trường tương tự để tạo thế cân bằng chiến lược mới ở Nam bán cầu.
Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” là một bộ phận trong Chiến lược “An ninh quốc gia của Mỹ”. Trong Chiến lược này, Mỹ coi việc làm sâu sắc hơn quan hệ với đồng minh đối tác là một ưu tiên hàng đầu; vai trò trung tâm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có ý nghĩa sống còn và hoan nghênh sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào có thể. Trong khi tìm kiếm các cơ hội mới để thúc đẩy hợp tác đa phương thực chất, Mỹ sẽ đẩy mạnh can dự với các cơ chế khu vực hiện có. Chính quyền Mỹ coi khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là địa bàn ưu tiên chiến lược.
Về chính trị, Mỹ ủng hộ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia, bất kể lớn, nhỏ; ủng hộ tự do cho mọi quốc gia, tiếp cận không hạn chế đối với các vùng biển, không gian quốc tế, giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng sức mạnh chèn ép các nước láng giềng, tuân thủ luật pháp và các chuẩn mực quốc tế – vốn tồn tại từ lâu và là nền tảng cho hòa bình, thịnh vượng từ nhiều thập niên qua…
Về kinh tế, Mỹ khẳng định sẽ cạnh tranh công bằng với tất cả các bên; theo đuổi chính sách thương mại công bằng, đầu tư tự do, bình đẳng và “có đi có lại”. Để thực hiện các nguyên tắc trên, Mỹ công bố các nhóm giải pháp cơ bản, bao gồm: (1) Mở rộng sự quan tâm đối với không gian biển. Mỹ sẽ duy trì các không gian chung trên biển bằng cách trợ giúp các đối tác xây dựng những lực lượng hải quân và các lực lượng thực thi pháp luật mạnh, hỗ trợ các đối tác xây dựng năng lực nhằm tăng khả năng giám sát và bảo vệ lợi ích và trật tự trên biển. (2) Tăng cường năng lực và tính liên thông trong tác chiến. Để thực hiện điều này, Mỹ sẽ tài trợ và bán các trang thiết bị quốc phòng tiên tiến cho các đối tác an ninh khu vực, tạo cơ hội về đào tạo quân sự chuyên nghiệp (theo tiêu chuẩn Mỹ) cho các sĩ quan và hạ sĩ quan quân đội các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. (3) Tăng cường thượng tôn pháp luật, thúc đẩy pháp quyền và quản trị minh bạch. Mỹ cho rằng điều này sẽ giúp hạn chế những tác động xấu có thể ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. Sự can dự về quốc phòng của Mỹ sẽ hỗ trợ, bổ sung thêm cho vấn đề này. (4) Thúc đẩy phát triển kinh tế do khu vực tư nhân dẫn dắt. Mỹ công nhận khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có nhu cầu rất lớn về đầu tư, bao gồm cả kết cấu hạ tầng.
Về các đối tác và các cơ chế khu vực, Mỹ sẽ tiếp tục tham gia sâu rộng vào các thiết chế khu vực hiện hành. Trong số đó, Mỹ sẽ ủng hộ và trợ giúp để ASEAN đóng vai trò trung tâm trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Một ASEAN đoàn kết và chung tiếng nói có thể giúp duy trì một khu vực tự do và tôn trọng luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục tham gia các cơ chế do ASEAN thành lập, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Cấp cao Đông Á (EAS), APEC và các cơ chế hợp tác ba bên, nhiều bên với các đối tác khác.
Ở khu vực Đông Bắc Á, Mỹ đang tập trung nâng cấp, hiện đại hóa các quan hệ liên minh giữa Mỹ và Nhật Bản để đối phó với các thách thức trong thế kỷ XXI. Ở Đông Nam Á, Mỹ sẽ khôi phục quan hệ đồng minh với Phi-líp-pin và Thái Lan, thúc đẩy quan hệ đối tác bền vững với Singapore và phát triển quan hệ đối tác mới với các nước chủ chốt ở khu vực, như Indonesia, Malaysia và Việt Nam. Ở châu Đại Dương, Australia vẫn là một trong những đồng minh lâu đời nhất của Mỹ. Mỹ cũng sẽ khôi phục quan hệ đối tác quốc phòng với New Zealand, đồng thời tăng cường can dự, kết nối với các đồng minh có lực lượng đang đồn trú ở khu vực Thái Bình Dương, như Anh, Pháp và Canada để thúc đẩy lợi ích tương đồng. Ở Nam Á, Mỹ đang tăng cường quan hệ đối tác với các nước trong khu vực, nhất là với Ấn Độ. Mỹ coi quan hệ Ấn Độ – Mỹ là mối quan hệ “đối tác tự nhiên” giữa hai nền dân chủ lớn nhất thế giới, dựa trên sự tương đồng về lợi ích chiến lược, các giá trị chung, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Với Trung Quốc, Mỹ chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông, bao gồm việc triển khai tên lửa đất đối hải, đất đối không, các hệ thống radar gây nhiễu và triển khai máy bay ném bom cỡ lớn.