Trong các bên tồn tại tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, Trung Quốc tập trung nhiều thủ đọan gây sức ép, khiêu khích và cản phá Việt Nam thực thi các hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán hợp pháp trong vùng biển của mình. Hành động trên của Trung Quốc là do xuất phát âm mưu chiếm đoạt trái phép các tài nguyên của Việt Nam.
Ở Biển Đông tồn tại chủ yếu hai loại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, đó là tranh chấp về chủ quyền đảo và tranh chấp về phân định ranh giới các vùng biển (bao gồm cả thềm lục địa). Trong khi tranh chấp về chủ quyền đảo liên quan đến lịch sử chiếm hữu và quản lý các đảo, đá, bãi ngầm thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở khu trung tâm Biển Đông, các tranh chấp ranh giới vùng biển bắt nguồn từ việc quốc gia ven biển mở rộng phạm vi các vùng biển của mình theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (Công ước Luật biển 1982). Từ góc độ pháp lý, hai loại tranh chấp này về cơ bản được giải quyết trên hai cơ sở khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế tranh chấp về chủ quyền đảo thường liên quan đến tranh chấp về phân định biển do bản thân các đảo tranh chấp cũng có vùng biển riêng của mình.
Xét từ góc độ địa chính trị, cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều có vị trí chiến lược. Nhiều ý kiến cho rằng việc nắm giữ hai quần đảo này đồng nghĩa với việc khống chế các tuyến hàng hải quan trọng tại Biển Đông, hay giành được ưu thế quân sự khi có xung đột ở Biển Đông. Đây có lẽ là yếu tố làm cho tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo, đặc biệt là Trường Sa, được các quốc gia bên ngoài khu vực quan tâm, xuất phát từ lợi ích duy trì tự do hàng hải ở Biển Đông.
Tranh chấp chủ quyền đối với Hoàng Sa là tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cái khó của tranh chấp này không phải ở chỗ có thể tìm ra căn cứ lịch sử và pháp lý thỏa đáng để phân định chủ quyền hay không, mà ở thái độ không chấp nhận thương lượng để tìm giải pháp của một bên tranh chấp. Tranh chấp ở quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa phương. Các bên tham gia tranh chấp có yêu sách không đồng nhất và, trừ Brunei, đều đang chiếm giữ một phần quần đảo này. Không những vậy, ở quần đảo Trường Sa còn tồn tại sự không rõ ràng về quy chế pháp lý của từng vị trí đảo đơn lẻ, cụ thể là chúng có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng không. Nếu như một số đảo trong quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng thì việc sở hữu các đảo đó cũng đồng nghĩa với việc sở hữu nguồn tài nguyên biển phong phú ở Biển Đông. Sự không rõ ràng trong lập trường của các quốc gia đối với quy chế pháp lý của các đảo tranh chấp cũng là một yếu tố làm cho tranh chấp ở Trường Sa trở nên phức tạp và khó giải quyết.
Việc Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, tiến hành xâm chiếm biển đảo của Việt Nam bằng cách sử dụng vũ lực; tiến hành cải tạo đảo, đá, quân sự hóa Biển Đông; gia tăng các hoạt động khảo sát trái phép sâu trong vùng biển Việt Nam… là nhằm biến khu vực không tranh chấp thành tranh chấp, rồi từ đó gây sức ép, buộc Việt Nam phải chấp nhận đàm phán song phương và hợp tác chung với Bắc Kinh ở Biển Đông. Theo nhà nghiên cứu James Borton, Trung tâm Khoa học Ngoại giao Đại học Tufts (Hoa Kỳ), “việc Trung Quốc điều nhóm tàu Hải Dương 8 vào sâu trong lãnh hải của Việt Nam còn được cho là một hành động mang tính thách thức về mặt pháp lý đối với quyền, chủ quyền của một quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS. Sự nguy hiểm của hành động này chính là, dù Việt Nam đã khai thác khu vực thuộc chủ quyền của mình từ hàng chục năm qua, Trung Quốc vẫn tìm cách biến khu vực không tranh chấp thành khu vực tranh chấp, “đánh lận trắng thành đen” tạo sóng căng thẳng về địa- chính trị trong khu vực”. Ông James Borton cho rằng, việc Trung Quốc liên tục đưa nhóm tàu Hải Dương 8 còn một mục đích nữa đó là ngăn cản các hoạt động khai thác dầu và khí đốt của Việt Nam.
Trên thực tế, Trung Quốc đã nhiều lần đề xuất hợp tác chung với Việt Nam ở Biển Đông. Phát biểu trong chuyến thăm Việt Nam, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (1/4/2018) cho rằng Trung Quốc và Việt Nam cần tuân thủ các quy tắc căn bản trong việc giải quyết tranh chấp trên biển; cả hai bên không được áp dụng các biện pháp đơn phương làm phức tạp hóa tình hình; khẳng định Trung Quốc nhất trí rằng việc giải quyết các vấn đề trên biển là vô cùng quan trọng đối với việc phát triển tốt đẹp, lâu dài mối quan hệ song phương; đồng thời nhấn mạnh hai bên cần “tăng cường hợp tác trên biển, gồm cả việc tiến hành thảo luận về hoạt động khai thác chung”. Tại phiên họp lần thứ 11 của Ủy Ban Chỉ Ðạo Hợp Tác Song Phương Việt Nam-Trung Quốc, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (16/9/2018) lại một lần nữa đề nghị “cách tích cực nhất để quản lý và kiểm soát tranh chấp trên biển là thảo luận hợp tác dò tìm dầu khí. Và sự tưởng nhớ 10 năm kỷ niệm đánh dấu đặt trụ mốc biên giới trên bộ giữa Trung Quốc và Việt Nam là thiết lập các khu vực hợc tác kinh tế xuyên biên giới thời gian sớm nhất”.
Việc Trung Quốc tìm mọi cách để gây sức ép và muốn hợp tác chung với Việt Nam ở Biển Đông là do:
Đầu tiên, Việt Nam là nước có tài nguyền dầu khí phong phú. Biển Đông là biển nửa kín, nằm ở rìa lục địa và là một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore tới eo biển Đài Loan và bao phủ một diện tích khoảng 3.447.000 km². Đây là biển lớn thứ tư thế giới sau biển Philippines, biển San Hô và biển Ả Rập. Tại đây, dầu khí là tài nguyên khoáng sản có vị thế quan trọng hàng đầu. Trữ lượng dầu mỏ của Biển Đông đã được xác định khoảng 7,7 tỷ barrel (ước tính tổng khối lượng bằng 28 tỷ barrel), trữ lượng khí gas tự nhiên được ước tính bằng khoảng 266 nghìn tỷ feet khối. Theo đánh giá của giới khoa học, Việt Nam có tài nguyên dầu khí rất phong phú, hầu hết diện tích chứa dầu khí đều nằm trên vùng thềm lục địa với độ sâu không lớn. Theo các công trình nghiên cứu thì vùng được đánh giá triển vọng nhất bao gồm các khu địa luỹ Tri Tôn – Tây của quần đảo Hoàng Sa, Bắc và Đông bắc bể Nam Côn Sơn và vùng Tư Chính.
Thứ hai, Trung Quốc không có chủ quyền ở Biển Đông, song sử dụng vũ lực xâm chiếm các đảo, đá thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc không cấu thành nên chủ quyền của Bắc Kinh ở Biển Đông. Chính vì vậy, Trung Quốc muốn thúc đẩy hợp tác chung với các nước ở trong khu vực nhằm từng bước hiện thực hóa chủ trương biến vùng không tranh chấp thành có tranh chấp, biến khu vực không có chủ quyền thành có chủ quyền.
Thứ ba, Trung Quốc muốn thông qua hợp tác chung với Việt Nam ở Biển Đông để tuyên truyền, định hướng dư luận và đánh bóng cho chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông. Hành động này của Trung Quốc cũng nhằm xoa dịu các nước Đông Nam Á đang có những tuyên bố tranh chấp về chủ quyền biển bằng các thỏa hiệp khai thác Biển Đông.
Thứ tư, thông qua thúc đẩy hợp tác song phương ở Biển Đông, Trung Quốc sẽ lợi dụng để làm giảm tác động phán quyết của Tòa Trọng tài (12/7/2016) liên quan vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết trên cho rằng không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn; Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt; việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên UNCLOS trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên; Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này bằng việc can thiệp vào hoạt động đánh cá và thăm dò dầu khí của Philippines, xây dựng đảo nhân tạo và không ngăn chặn ngư dân Trung Quốc đánh bắt ở khu vực này.
Cuối cùng, thông qua hợp tác với các nước ở Biển Đông nói chung và hợp tác với Việt Nam nói riêng, Trung Quốc sẽ tìm cách củng cố vị thế, tầm ảnh hưởng trong khu vực và từng bước ngăn các nước khác tìm kiếm sự giúp đỡ từ Mỹ trong vấn đề Biển Đông.
Trong khi đó, Việt Nam là nước duy nhất có đầy đủ chứng cứ lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông. Đối với các bất đồng, tranh chấp trên Biển Đông, chủ trương nhất quán của Việt Nam là: Không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, DOC, nhằm sớm tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam cũng hoan nghênh nỗ lực và đóng góp của tất cả các nước trong và ngoài khu vực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông; đánh giá cao việc cộng đồng quốc tế có những đóng góp xây dựng nhằm bảo vệ an ninh, an toàn hàng hải và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Đối với các vấn đề liên quan đến hai nước Việt Nam – Trung Quốc (ở quần đảo Hoàng Sa) thì giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các bên khác (ở quần đảo Trường Sa), liên quan đến tự do hàng hải thì cần có sự bàn bạc của tất cả các bên liên quan. Nếu các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán thì cần phải giải quyết bằng các phương thức khác như trung gian, hòa giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa ICJ, Tòa ITLOS và các tòa trọng tài.
Ưu tiên hàng đầu của Việt Nam là thông qua các kênh ngoại giao và chính trị để giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế và đảm bảo lợi ích của tất cả các bên liên quan. Đây có thể được coi là biện pháp hữu hiệu và thiết thực nhất để giải quyết tranh chấp một cách hòa bình, song biện pháp này đang rơi vào thế bế tắc do các bên liên quan tranh chấp đều khẳng định vấn đề chủ quyền lãnh thổ là bất khả xâm phạm và không thể nhượng bộ. Vì vậy, tất cả các nước có tranh chấp cần có ý trí chính trị, tinh thần thượng tôn pháp luật và nhìn nhận một cách khách quan về yêu sách chủ quyền ở Biển Đông để tiến hành đàm phán (song phương hoặc đa phương nếu liên quan các vấn đề đa phương) giải quyết tranh chấp. Việc sử dụng biện pháp đàm phán sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, nếu các biện pháp chính trị, ngoại giao không giải quyết được tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và Trung Quốc tiếp tục có các hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông, Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp với các bên liên quan. Việt Nam cần chủ động nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ pháp lý để có thể vận dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tài phán, nhất là thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS.
Ngoài ra, nếu các biện pháp hòa bình trên không đạt được kết quả, Việt Nam cũng không thể khoanh tay đứng nhìn nước nào đó chiếm chọn Biển Đông, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Tuy đây là biện pháp cuối cùng và nó cũng là cách mà không người Việt Nam nào mong muốn, song để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam cũng không loại trừ khả năng sử dụng các biện pháp vũ trang để tự vệ, chống lại các hành động xâm phạm chủ quyền đã được luật pháp quốc tế và đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận và ủng hộ. Hành động của Việt Nam chỉ mang tính chất tự vệ, không nhằm mục đích sử dụng vũ lực để xâm chiếm lãnh thổ của các nước khác. Điều này đã được khẳng định và thể hiện rõ nét trong chính sách quốc phòng của Việt Nam thời gian qua. Theo đó, tính chất nhất quán của quốc phòng Việt Nam là: Tự vệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động phát triển kinh tế biển trong thời bình, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ tác chiến trên biển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Việt Nam cần chủ động chuẩn bị các phương án tác chiến, xây dựng các công trình phòng thủ; kết hợp chặt chẽ thế trận của các đảo, cụm đảo với thế trận của lực lượng cơ động trên biển, thế trận ven biển, thế trận phòng không-không quân… góp phần răn đe, ngăn ngừa xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh. Khi xảy ra xung đột, cần bình tĩnh kiềm chế, kiên trì đấu tranh; đồng thời, triển khai lực lượng và các hoạt động trên biển, tạo thế hỗ trợ, phối hợp với đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý…, không để đối phương lợi dụng tạo cớ, gây xung đột vũ trang và chiến tranh đánh chiếm biển, đảo của Việt Nam. Trường hợp buộc phải đấu tranh vũ trang, cần hành động kiên quyết, nhanh, mạnh, gọn, kết hợp với các mặt đấu tranh khác không để xung đột lan rộng, kéo dài, mở rộng thành chiến tranh.