Trung Quốc đã không từ thủ đoạn để độc chiếm tài nguyên và kiểm soát Biển Đông. Tuy nhiên, hành vi của Trung Quốc đã, đang và sẽ bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích. Nhìn từ nhiều khía cạnh cho thấy, Trung Quốc đang phải trả giá đắt cho những hành vi đê hèn của mình ở Biển Đông.
Hành vi không thể chấp nhận
Trung Quốc đi ngược lại cam kết không quân sự hóa trên Biển Đông do chính Tập Cận Bình đưa ra. Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã triển khai phi pháp nhiều loại hình vũ khí tấn công trên các thực thể chiếm đóng trái phép của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa như điều máy bay quân sự Tây An Y-7 tới đá Vành Khăn; thiết lập hơn 40 cơ sở radar khác nhau trên 7 đảo đá ở Trường Sa; triển khai 03 xe đặc chủng mang thiết bị phá song quân sự trên đá Vành Khăn và cũng đã triển khai một số hệ thống phá sóng tại đá Chữ Thập; điều máy bay Thiểm Tây Y-8 tới đá Xu Bi; triển khai tên lửa tên lửa hành trình chống hạm YJ-12B và các tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9A hoặc HQ-9B đá Vành Khăn, đá Xu Bi và đá Chữ Thập; triển khai phi pháp một loạt khí tài như hệ thống tên lửa đất đối không hoặc đối hạm, radar, xe hậu cần, thiết bị phá sóng đến đảo Phú Lâm; đưa máy bay ném bom, kể cả Tây An H-6K tới ở đảo Phú Lâm; kích hoạt và thử nghiệm các thiết bị tác chiến điện tử được lắp đặt trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập; đưa tàu tìm kiếm cứu nạn “Nam Hải cứu 115”, có bãi đáp cho trực thăng cứu hộ cỡ trung tới neo đậu thường trú tại Đá Xu Bi; điều tàu chiến có tên lửa dẫn đường Type 054A ra Đá Chữ Thập ở Trường Sa… Hành động trên của Trung Quốc đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của cộng đồng quốc tế, buộc Bắc Kinh “muối măt” thừa nhận quân sự hóa trên Biển Đông.
Bên cạnh đó, Trung Quốc là một trong những nước có cách hành xử thô bạo, nguy hiểm và có phần tàn độc đối với ngư dân các nước đang đánh bắt cá trên Biển Đông. Việc Trung Quốc sử dụng lực lượng dân quân biển hay lực lượng chấp pháp (Cảnh sát biển, Ngư chính…) tấn công, cướp bóc, đâm chìm tàu cá của ngư dân các nước đang đánh bắt cá hợp pháp trên Biển Đông không phải hiếm gặp. Tuy nhiên, thay vì nhận sai và bồi thường cho ngư dân các nước, Chính quyền Trung Quốc lại ngang nhiên cho rằng lực lượng chấp pháp của minh “không hề tấn công” tàu cá các nước, khẳng định “tàu Trung Quốc đã cứu vớt” tàu cá các nước… Trong năm qua, tàu dân quân biển của Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Philippines khi đang nghỉ đêm tại vùng biển bãi Cỏ Rong rồi bỏ mặc 22 ngư dân trôi dạt trên biển là một ví dụ điển hình. Không chỉ đâm chìm tàu cá các nước, lực lượng chức năng của Trung Quốc còn kiêm nhiệm chức năng “cướp biển”. Tàu cá QNa-91441 của ngư dân Quảng Nam (2/6/2019) bị tàu Cảnh sát biển Trung Quốc số hiệu 46305 chặn cướp tài sản khi đánh bắt cá trong vùng biển gần đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Theo thông tin trên, tàu cá của ngư dân Quảng Nam có số hiệu QNa-91441 khai báo rằng tàu bị “tàu Trung Quốc mang số hiệu 46305 áp sát, yêu cầu mở hầm tàu và đưa hết mực khô bên trong rồi vận chuyển sang ca nô chở về tàu 46305”. Vụ cướp được ghi nhận xảy ra tại vị trí 15 độ 42 phút Bắc, 111 độ 34 phút Đông, thuộc đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Thuyền trưởng tàu QNa-91441 cho biết, “trong khi khống chế và lấy mực, có người trên tàu Trung Quốc nói tiếng Việt với các ngư dân rằng đây thuộc vùng biển Trung Quốc nên cấm khai thác. Ngoài ra người này còn dọa sẽ cắt hết lưới và lấy hết dụng cụ hành nghề nếu phát hiện ngư dân Việt Nam lần sau”. Tin cho hay trị giá của 2 tấn mực khô vào khoảng 250 triệu đồng, nhưng thiệt hại chung do chuyến đi gặp trở ngại có thể cao hơn gấp đôi.
Bắc Kinh không có chủ quyền trên Biển Đông
Từ trước đến nay, Trung Quốc luôn sử dụng giọng điệu “Bắc Kinh có chủ quyền không thể tranh cãi đối với khu vực Biển Đông” và rằng “khu vực này là do tổ tiên để lại”. Tuy nhiên, đây chỉ là cách Trung Quốc đánh lừa cộng đồng quốc tế. Bắc Kinh thực chất không có cơ sở pháp lý cũng như chứng cứ lịch sử để khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông. Từ khía cạnh luật quốc tế và chứng cứ lịch sử đều chứng minh Trung Quốc không có chủ quyền đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa và 7 đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa từ Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng các quy định luật pháp quốc tế hiện hành, bao gồm Hiến chương LHQ, Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).
Không những vậy, bản đồ “đường 9 đoạn” của Trung Quốc là không có cơ sở pháp lý, lịch sử. Trung Quốc (7/5/2009) nhằm khẳng định “chủ quyền” sai trái của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam, đã gửi công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc “phản đối việc Việt Nam nộp Báo cáo về Ranh giới ngoài thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc theo quy định của UNCLOS”, Trung Quốc cũng đã gửi kèm một sơ đồ trên đó thể hiện “đường 9 đoạn” của mình trên Biển Đông. Trong công hàm Trung Quốc đã nêu quan điểm “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) và các vùng nước kế cận, và có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất đáy biển ở đó”. Với lập luận “đường 9 đoạn” Trung Quốc đã thể hiện yêu sách của mình đối với 80% diện tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc gia ven Biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Philippines. Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính quyền Trung Quốc (Quốc dân đảng) vẽ ra vào năm 1947 và sau đó được CHND Trung Hoa tiếp tục sử dụng nhưng có sửa đổi, đó là Trung Quốc đã bỏ bớt 2 đoạn trong vịnh Bắc Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn. Công hàm này là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về ý nghĩa pháp lý quốc tế của “đường 9 đoạn” và cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố sơ đồ đường yêu sách này với thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc không hề đưa ra bất cứ một lời giải thích hoặc chứng cứ pháp lý khẳng định nước này có “chủ quyền” theo “đường 9 đoạn” ở Biển Đông.
Trong khi đó, Tòa trọng tài theo phụ lục VII của LHQ (7/2016) đã ra phán quyết liên quan vụ Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, trong đó tuyên bố: Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung thực chất, Toà kết luận rằng UNCLOS quy định một cách toàn diện về các quyền đối với các vùng biển và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước UNCLOS liên quan đến tài nguyên đã được xem xét nhưng chúng không được thông qua và quy định tại UNCLOS. Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong UNCLOS. Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây. Vì vậy, Toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn” hay còn được gọi là “đường lưỡi bò”.
Trung Quốc đang phải trả giá
Đầu tiên, cộng đồng quốc tế đã nhận rõ bản chất nham hiểm và thủ đoạn xảo trá của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Một mặt, Trung Quốc rất biết cách chọn thời điểm để tiến hành các hoạt động phi pháp của mình, khiến cộng đồng quốc tế trở tay không kịp, mặt khác Bắc Kinh không từ bất cứ thủ đoạn gì để làm, miễn là đạt được âm mưu của mình, cho dù thủ đoạn đó đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh khu vực, vi phạm luật quốc tế và bị cộng đồng quốc tế chỉ trích. Ngoài ra, Trung Quốc đã dần lộ rõ bộ mặt thật của hình tượng “nước lớn có trách nhiệm” đối với cộng đồng quốc tế. Trước những hành động của Bắc Kinh, sẽ chẳng có một nước nào trên thế giới tin vào những gì mà Trung Quốc luôn tuyên truyền bấy lâu nay về việc phát triển hòa bình, không chạy đua vũ trang hay có trách nhiệm duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới. Trái lại với những gì tuyên bố, Trung Quốc đang là nước gây bất ổn trong khu vực, đe dọa nghiêm trọng hòa bình và lợi ích của tất cả chúng ta.
Thứ hai, khi các nước không còn lòng tin vào Trung Quốc thì đương nhiên là sức ảnh hưởng chính trị, kinh tế, ngoại giao của Bắc Kinh cũng sẽ tụt lùi theo.
Thứ ba, Trung Quốc đừng mộng tưởng rằng quân sự hóa được ở Biển Đông là có thể kiểm soát hoàn toàn khu vực này và cũng đừng mơ mộng rằng cộng đồng quốc tế sẽ để yên cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Trong bối cảnh tất cả các nước đều nỗ lực chung tay vì mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới, thúc đẩy cùng nhau sống có trách nhiệm và tôn trọng luật pháp quốc tế, thì không cớ gì lại để Trung Quốc, một trong sáu nước thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lại sống “ngoài vòng pháp luật”.
Thứ tư, tuy Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei là những nước nhỏ về cả kinh tế, quân sự và địa lý nhưng họ đều có lòng tự tôn dân tộc, lòng yêu nước thiết tha và tinh thần bất khuất trong việc giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Họ sẽ triển khai tất cả các biện pháp mà luật pháp quốc tế cho phép để bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc mình. Hành động của Trung Quốc chắc chắn sẽ không đe dọa được họ.
Nhìn chung, với những hành vi sai trái trên Biển Đông, Trung Quốc không chỉ bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích mà còn bị các nước xa lánh, coi thường. Do đó, để duy trì vị thế và tầm ảnh hưởng của minh, Trung Quốc cần chấm dứt ngay lập tức hoạt động phi pháp trên Biển Đông, tôn trọng chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.