Thursday, April 25, 2024
Trang chủBiển nóngÂm mưu của TQ khi đưa vào vận hành trạm “nghiên cứu...

Âm mưu của TQ khi đưa vào vận hành trạm “nghiên cứu khoa học” trên Biển Đông

Việc Trung Quốc vận hành trái phép các trung tâm “nghiên cứu khoa học” trên quần đảo Trường Sa không chỉ là hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn đi ngược lại các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982. Hành động trên của Trung Quốc nhằm mượn danh “nghiên cứu khoc học” để tìm cách củng cố các yêu sách chủ quyền phi pháp trên biển.

Quy định của UNCLOS 1982 về nghiên cứu khoa học biển

Về định nghĩa nghiên cứu khoa học biển, UNCLOS 1982 đề cập vấn đề nghiên cứu khoa học biển trong nhiều điều khoản, nhưng không đưa ra định nghĩa nghiên cứu khoa học biển. Trên thực tế, trong quá trình đàm phán UNCLOS 1982, đã có nhiều đề xuất được đưa ra nhằm định nghĩa hoạt động nghiên cứu khoa học biển, nhưng cuối cùng, không có đề xuất nào được thông qua. Việc mập mờ về khái niệm dẫn đến phát sinh các tranh cãi pháp lý về tính hợp pháp của các hoạt động nghiên cứu khoa học biển và các hoạt động tương tự được quy định trong UNCLOS 1982.

Về chủ thể thực hiện nghiên cứu khoa học biển, Điều 238 – điều khoản mở đầu phần XIII – UNCLOS 1982 quy định tất cả các quốc gia, dù vị trí địa lý ở đâu và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền đều có thể thực hiện các nghiên cứu khoa học biển phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác được quy định trong Công ước. Như vậy, từ điều khoản này, có thể thấy có 2 nhóm chủ thể có thể thực hiện nghiên cứu khoa học biển đó là các quốc gia (dù quốc gia có biển hay không có biển) và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển. Trên thực tế, có nhiều tổ chức quốc tế có thẩm quyền thực hiện nghiên cứu khoa học biển, như: Hội đồng quốc tế về thăm dò biển (ICES), Ủy ban hải dương học liên chính phủ UNESCO (IOC).

Về các điều kiện để thực hiện nghiên cứu khoa học biển, nghiên cứu khoa học biển phải được thực hiện vì mục đích hòa bình, bằng các biện pháp khoa học phù hợp, không dẫn đến việc cản trở các hoạt động sử dụng biển hợp pháp phù hợp với công ước khác. Một điểm đáng chú ý đó là nghiên cứu khoa học biển không tạo ra cơ sở pháp lý cho bất cứ yêu sách nào về một phần của môi trường biển hay các tài nguyên thuộc môi trường biển đó.

Nghiên cứu khoa học biển được điều chỉnh bởi các quy định khác nhau của UNCLOS phụ thuộc vào quy chế pháp lý của vùng biển nơi tiến hành hoạt động nghiên cứu. Theo đó, nội thủy và lãnh hải thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Do vậy, các quốc gia ven biển có đặc quyền để điều chỉnh các nghiên cứu khoa học biển trong các khu vực kể trên. Trên cơ sở đó, Điều 245 UNCLOS 1982 quy định: Các quốc gia ven biển, khi thực hiện chủ quyền của mình, có đặc quyền điều chỉnh, chỉ đạo và thực hiện các nghiên cứu khoa học trong lãnh hải. Các nghiên cứu khoa học biển ở vùng biển này chỉ được thực hiện với sự chấp thuận theo những điều kiện được đưa ra bởi các quốc gia ven biển. Đối với Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các nghiên cứu khoa học biển phải được thực hiện với sự chấp thuận của các quốc gia ven biển. Tuy nhiên, các quốc gia ven biển phải đảm bảo, “trong các hoàn cảnh thông thường” (in normal circumstances), chấp thuận cho các dự án nghiên cứu khoa học biển với mục đích hòa bình và nhằm tăng cường kiến thức khoa học về môi trường biển vì lợi ích của nhân loại.

Âm mưu của Trung Quốc

Theo quy định của UNCLOS 1982, việc triển khai các “trạm nghiên cứu khoa học” phải tuân thủ các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển mà UNCLOS đã trù định; và các công trình nghiên cứu khoa học phải để phục vụ mục đích hòa bình. Tất cả quốc gia, tổ chức quốc tế có thẩm quyền đều có quyền tiến hành nghiên cứu khoa học biển. Tuy nhiên, phải tuân thủ điều kiện tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển của quốc gia ven biển.

Từ khía cạnh trên cho thấy, Trung Quốc đưa vào vận hành trái phép các trạm “nghiên cứu khóa học” trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam là không phù hợp với các quy định của UNCLOS 1982. Theo đó, trạm nghiên cứu khoa học được đặt trên đảo thuộc chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ của quốc gia ven biển. Khi đó, chỉ quốc gia ven biển mới được đặt hoặc cho phép rõ ràng các quốc gia khác hoặc tổ chức khoa học nước ngoài đặt trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của quốc gia ven biển và thỏa thuận hợp tác khoa học nhằm mục đích hòa bình. Bên cạnh đó, trong vùng lãnh hải, quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền. Quốc gia ven biển có đặc quyền quy định, cho phép và tiến hành các công tác nghiên cứu khoa học biển ở trong lãnh hải của mình. Mọi nghiên cứu chỉ được tiến hành với sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia ven biển và trong các điều kiện do quốc gia này ấn định. Việc đi vào lãnh hải và các điều kiện phải tuân thủ khi tiến hành nghiên cứu khoa học biển sẽ phải chịu sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Tàu thuyền thực hiện quyền qua lại trong lãnh hải không gây hại không được tiến hành hoạt động nghiên cứu khoa học biển nếu không có sự đồng ý rõ ràng của quốc gia ven biển. Ngoài ra, trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và trên thềm lục địa, quốc gia ven biển chỉ có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển. Vì vậy, hoạt động này được tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển sẽ không khước từ một cách phi lý hoạt động nghiên cứu khoa học biển. Thay vào đó, thông qua các thủ tục và quy tắc đảm bảo, hoạt động nghiên cứu khoa học biển sẽ được cho phép thực hiện trong những thời hạn hợp lý nhằm vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, tăng thêm kiến thức khoa học về môi trường biển, vì lợi ích của toàn thể loài người. Trong EEZ và thềm lục địa, quốc gia ven biển có quyền tài phán không chỉ đối với các nghiên cứu ứng dụng mà còn đối với cả các nghiên cứu cơ bản, không phân biệt.

Từ đó cho thấy, những hành vi của Trung Quốc vừa qua, nhất là việc đưa vào sử dụng trái phép “trạm nghiên cứu khoa học” ở đá Chữ Thập và Subi thuộc quần đảo Trường Sa mà không được sự đồng ý của phía Việt Nam là vi phạm các quy định của UNCLOS 1982; vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Đây là động thái nằm trong chuỗi hành động với mục tiêu khẳng định sự có mặt của Trung Quốc ở Biển Đông, tiến tới độc chiếm kiểm soát vùng biển này. Theo giới nghiên cứu, vị trí các trạm mới đặt tại đá Chữ Thập và đá Subi lần này cùng trạm đặt trái phép trên đá Vành Khăn năm 2018 sẽ tạo thế chân vạc giúp kiểm soát tất cả hoạt động biển ở quần đảo Trường Sa. Các trạm nghiên cứu này không chỉ đơn thuần là các trạm nghiên cứu san hô vì chính TQ đã tàn phá các rạn san hô để mở rộng các bãi nửa nổi nửa chìm trên quần đảo Trường Sa, phá hoại môi trường biển. Điều này có trong phán quyết của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS đã nói đến vào năm 2016. Thông tin được các trạm này thu thập không phục vụ cho mục đích hòa bình mà cho các hoạt động quân sự, làm phức tạp thêm tình hình trên biển Đông.

Trước hành động phi pháp trên của Trung Quốc, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng (26/3) đã ra tuyên bố phản đối, đồng thời nhấn mạnh: “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Theo đó, mọi hoạt động tại hai quần đảo này phải có sự cho phép của Việt Nam. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, không có các hành động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở biển Đông và khu vực, cũng như nỗ lực của các nước trong tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc”.

RELATED ARTICLES

Tin mới