Việc Trung Quốc gia tăng các hoạt động phi pháp trên Biển Đông gần đây đã tác động trực tiếp đến nỗ lực thúc đẩy đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và không loại trừ khả năng Bộ Quy tắc này sẽ rơi vào bế tắc vô thời hạn.
Trung Quốc là nước không có chủ quyền ở Biển Đông, việc nước này chiếm đóng trái phép các đảo đá ở quần đảo Hoàng Sa và một phần ở quần đảo Trường Sa là do sử dụng vũ lực đánh chiếm trái phép. Do đó, những lập luận biện minh và yêu sách chủ quyền của nước này đều không đúng, bị luật pháp quốc tế bác bỏ. Tuy nhiên, Trung Quốc cậy là nước lớn về kinh tế, quân sự đã chèn ép, chiếm đóng các đảo, đá của các nước láng giềng. Việc Quốc vụ viện Trung Quốc (18/4) đã phê chuẩn việc thành lập cái gọi là “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” trực thuộc “thành phố Tam Sa”, tỉnh Hải Nam. Hai “quận” này lần lượt quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang bị chiếm đóng của Việt Nam ở Biển Đông, cũng như bãi Macclesfield và bãi Scarborough, khu vực mà Bắc Kinh gộp chung gọi là “quần đảo Trung Sa” đã là “giọt nước tràn lý”, khiến cộng đồng quốc tế đưa ra những tuyên bố chỉ trích, lên án Trung Quốc. Giới học giả cho rằng đây là những bước tiếp nối của Trung Quốc trong việc độc chiếm Biển Đông. Song nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng hòa bình, ổn định trong khu vực, sự thượng tôn luật pháp quốc tế trên thế giới, nhất là nỗ lực của ASEAN trong việc thúc đẩy đàm phán COC.
Giáo sư Jay Batongbacal (Đại học Luật, Philippines) nhận định, ý định của Bắc Kinh rất rõ ràng về độc chiếm Biển Đông, gây bất lợi cho tất cả những nước khác trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Nam Á từ lâu đã coi đây là vùng biển chung. Đây là những chỉ dấu mới nhất của chiến lược chiếm lĩnh Biển Đông từng bước và lâu dài của Trung Quốc, hy vọng rằng mỗi động thái nhỏ sẽ không thu hút quá nhiều sự chú ý và sẽ bị cộng đồng quốc tế bỏ qua, để đến thời điểm nào đó trong tương lai, họ thể lập luận rằng cộng đồng quốc tế đã chấp nhận và mặc nhiên đồng ý với các hành vi đó. Bên cạnh đó, lý thuyết “Tứ Sa” gần đây là nỗ lực để tái khẳng định yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc bằng cách chuyển một yêu sách quá mức mơ hồ đối với toàn bộ vùng biển thành một yêu sách quá mức mơ hồ khác đối với bốn nhóm đảo cùng vùng biển và các thực thể ở giữa và xung quanh chúng. Vì “đường lưỡi bò” không được cộng đồng quốc tế chấp nhận, Trung Quốc đang cố gắng tiếp tục đẩy mạnh yêu sách phi lý của mình nhưng tránh đề cập đến “đường lưỡi bò” phi pháp với hy vọng rằng điều này có thể tránh được sự phản đối hay phản ứng tức thời. Lần này, họ đang nhấn mạnh các nhóm đảo là cơ sở và nguồn gốc của yêu sách phi lý. Sự nguy hiểm của cả hai yêu sách này là như nhau bởi vì xét tất cả ý định và mục đích, chúng cùng là một yêu sách, chỉ là cách trình bày khác nhau. Lý thuyết “Tứ Sa” cũng cố tình áp dụng sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 bằng cách tuyên bố rằng mọi nhóm đảo nói trên đều là quần đảo có thể được bao bọc bằng đường cơ sở thẳng như những gì họ đã làm với Hoàng Sa và rằng thậm chí các khu vực chìm dưới biển cũng có thể được tuyên bố chủ quyền. Trong trường hợp sau, việc lập ra các “quận” gần đây và đặt tên các thực thể ở Biển Đông với mục đích được cho là khẳng định chủ quyền là nỗ lực để giới thiệu và thực hành lý thuyết “Tứ Sa”. Lý thuyết này cũng sai lầm và vô căn cứ như “đường lưỡi bò” mà thôi. Tình hình hiện tại mang đến cho Trung Quốc những cơ hội mới mà họ đang khai thác để loại bớt trở ngại trong việc thực hiện chiến lược của mình. Mặc dù đúng là Trung Quốc đã thực hiện các bước này ngay cả khi không khủng hoảng, rõ ràng Trung Quốc đang sử dụng nó để tối đa hóa khả năng mở rộng quyền kiểm soát và giảm thiểu khả năng các quốc gia khác thể hiện mạnh mẽ sự phản đối đối với các động thái của Trung Quốc. Tuy nhiên, những hành động trên của Trung Quốc sẽ tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến COC. Theo đó, nguyên trạng đã không thay đổi một cách rõ ràng và dồn dập, và đó là mấu chốt trong các bước đi tích tiểu thành đại của Trung Quốc. Sự đối đầu giữa Trung Quốc và các bên trên Biển Đông chỉ là nhất thời nhưng gây ra tác động lâu dài. Đó là khiến các chủ thể ngoài khu vực, chẳng hạn như giới đầu tư – không muốn nghĩ đến việc hợp tác thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở bất cứ đâu tại Biển Đông. Những động thái của Trung Quốc cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các cuộc đàm phán COC, bởi vì chúng thể hiện ý định thực sự của Trung Quốc và hủy hoại bất cứ sự tin cậy nào đặt vào lập trường và đề xuất của họ. Song từ góc độ luật pháp quốc tế, không có động thái nào trong số này giúp thúc đẩy hoặc củng cố lập trường pháp lý của Trung Quốc. Tại thời điểm này, bất kỳ hành động nào Bắc Kinh thực hiện chỉ là những nỗ lực vị kỷ để tạo ra vỏ bọc pháp lý cho các hoạt động gây tranh cãi của họ. Chúng hoàn toàn không có tính ràng buộc đối với các quốc gia khác. Trước tình hình trên, các bên ở Đông Nam Á khác nên trao đổi thẳng thắn thông tin và quan điểm về lợi ích chung của họ cũng như những gì họ muốn đạt được. Họ cũng nên thống nhất và thể hiện lập trường với tư cách một nhóm vì rất rõ ràng rằng từng cá nhân có rất ít cơ hội đạt được bất cứ điều gì với Trung Quốc. Song nếu là một nhóm, họ có thể mạnh hơn và có được nhiều đòn bẩy hơn, đặc biệt là khi chính họ đã tự nhìn thấy chính Trung Quốc không hề kiềm chế trong việc mở rộng quyền kiểm soát ở Biển Đông. Ỏ đây, liên quan tới Philippines, tôi muốn thêm là công hàm ngày 22/4 cho thấy bất chấp những gì thể hiện ra bên ngoài, quan hệ Trung Quốc – Philippines không gần gũi và thân thiết như Trung Quốc cố gắng phác họa. Nó cũng thể hiện sự hai mặt trong ngoại giao của Trung Quốc: Trong khi nói Philippines là quốc gia thân thiện, Trung Quốc cũng tiến hành các hành động khiêu khích và thù địch chống lại Philippines trên biển.
Cùng quan điểm trên, Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean (Trường Quan hệ quốc tế Rajaratnam, Singapore) nhận định đây không phải là những bước “tiến lên” ở Biển Đông như một số người bình luận. Những động thái vừa qua nhất quán với những gì Trung Quốc đã làm trong những năm gần đây, đặc biệt là sau 2012 với việc tăng cường đẩy yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Những động thái này đã được lên kế hoạch từ lâu. Về mặt lý thuyết, chiến lược “Tứ Sa” có nghĩa là Trung Quốc tuyên bố đường cơ sở quần đảo cho quần đảo Trường Sa, tương tự như cách đã được thực hiện cho quần đảo Hoàng Sa. Nhưng trong thực tế, đây hoàn toàn sẽ là một sự khiêu khích đối với các yêu sách khác và dẫn đến các phản ứng dữ dội. Trung Quốc có thể chỉ phải đối phó với Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, nhưng sẽ không phải như vậy tại Trường Sa, nơi họ phải đối phó với nhiều bên hơn, và nguy cơ gặp phải phản ứng mạnh mẽ từ ASEAN là rất cao. Trong mọi trường hợp, tuyên bố đường cơ sở quần đảo đó là một chuyện, thi hành là một chuyện khác. Ngay cả khi Bắc Kinh có ý chí và quyền lực để làm như vậy, điều này đồng nghĩa với việc xâm phạm lợi ích của các bên khác. Trung Quốc vẫn sẽ tiến hành những động thái đó. Điểm khác biệt của lần này là Trung Quốc đang khai thác nó như “cánh cửa cơ hội” để củng cố thêm lợi ích của Trung Quốc. Những động thái này tiếp tục giúp tăng cường sự kiểm soát thực tế của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, cái gọi là “nguyên trạng” ở Biển Đông lâu nay đã bị đặt dấu hỏi vì hành vi của Trung Quốc. Với việc xây dựng những hòn đảo ở Trường Sa và bình thường hóa hành vi cưỡng ép của họ tại khu vực, Trung Quốc đã làm thay đổi nguyên trạng. Chúng ta chỉ có thể thấy Trung Quốc đang ngày làm xói mòn thêm cái gọi là nguyên trạng này. Ngoài ra, tình hình hiện tại đã làm chậm tiến độ đàm phán về COC mà ASEAN và Trung Quốc đang theo đuổi. Tuy nhiên, các hành động vật lý ở thực địa là một thực tế – trong khi chúng không giúp củng cố tính hợp pháp cho các yêu sách của Bắc Kinh dưới bất kỳ hình thức nào, thì sự thật là Trung Quốc đang nắm giữ ưu thế vật lý ở Biển Đông, và sẽ chỉ tiếp tục đẩy mạnh điều này dù chúng ta có thích hay không. Tiến sĩ Collin Koh Swee Lean cho rằng lý tưởng nhất là chúng ta có một mặt trận ASEAN đoàn kết trong vấn đề này, hoặc một mặt trận đoàn kết giữa các bên yêu sách ở Biển Đông trong ASEAN. Trước tiên, ASEAN cần phải cùng nhau hành động và ít nhất là trong cuộc đàm phán COC, hãy đàm phán cùng Trung Quốc với tư cách một khối thay vì Bắc Kinh đàm phán riêng rẽ với 10 quốc gia thành viên ASEAN. Tuy nhiên, đây là một quá trình dài hơi. Bên cạnh đó, các bên trong ASEAN cần phải công khai lập trường về Biển Đông một cách vững chắc, bắt đầu tập trung xây dựng lực lượng có thể đối phó với các hoạt động cưỡng ép của Trung Quốc ở “vùng xám” trên biển. Họ cũng cần tăng cường khả năng phục hồi kinh tế bằng cách đa dạng hóa thị trường và đầu tư từ Trung Quốc để giảm nguy cơ rơi vào tình trạng ép buộc kinh tế hoặc bẫy nợ của Bắc Kinh.
Trong khi đó, tiến sĩ Oh Ei Sun (nguyên cố vấn chính trị cho thủ tướng Malaysia) cho rằng Trung Quốc muốn gửi thông điệp đến các bên ở Biển Đông, cũng như những người chơi khác như Mỹ, rằng ngay cả trong lúc này, tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông vẫn không hề suy suyển. Chiến lược chính của Trung Quốc ở đây là ngăn cản hoặc làm suy giảm khả năng khai thác kinh tế của các bên ở Biển Đông, đến nỗi họ không thể tiếp tục tuyên bố những yêu sách liên quan của mình. Nếu không được như vậy, Trung Quốc sẽ cưỡng ép để cùng khai thác chung. Trong khi đó, một thực tế khác trong chính trị quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia khá đa dạng, không chỉ có khía cạnh chính trị và ngoại giao mà cả kinh tế xã hội. Hầu hết các bên ở Biển Đông là đối tác thương mại lớn của Trung Quốc, và họ cần thị trường cũng như vốn đầu tư lớn của Trung Quốc cho sự phát triển kinh tế của họ.
Đáng chú ý, giới chuyên gia cũng cho rằng, ASEAN có vai trò rất quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định, trong quá trình giải quyết các tranh chấp Biển Đông. Bởi vì, các quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của hầu hết các quốc gia thành viên của ASEAN đều bị vi phạm, trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong Biển Đông. Trong lịch sử các thành viên của Hiệp hội ASEAN đã có nhiều đóng góp rất quan trọng cho tiến trình giải quyết các tranh chấp phức tạp này thông qua các Nghị quyết, Tuyên bố, điển hình như DOC. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, ASEAN đã có lúc bộc lộ những điểm yếu của mình về sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Thậm chí có lúc không ra được Tuyên bố chung, không có tiếng nói đồng thuận trong một số vấn đề pháp lý, chính trị liên quan đến tình hình Biển Đông. Việt Nam và Philippines cần tiếp tục vận động trên cơ sở có lý có tình, thông cảm đến hoàn cảnh của từng thành viên để có cách ứng xử thích hợp, trên cơ sở chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm chung.
Xuất phát từ chính sách đối ngoại hòa bình, nên từ trước khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nhiệt liệt ủng hộ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông. Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào việc soạn thảo, thương lượng nội dung các quy định trong DOC. Sau khi DOC được ký, Việt Nam tiếp tục nêu cao vai trò, trách nhiệm tuân thủ các cam kết trong DOC; có các bước đi thích hợp để các nước hiểu rõ lập trường của nước ta về Biển Đông, kiên trì cùng các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS); thúc đẩy thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới xây dựng COC nhằm góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Là thành viên trong ASEAN, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm của mình tích cực tham gia xây dựng COC thực sự là cơ sở pháp lý hàng đầu, nhân tố quan trọng góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, đảm bảo duy trì hòa bình, ổn định, an ninh cho vùng Biển Đông nói riêng, khu vực châu Á – Thái Bình Dương và thế giới nói chung.
Nhìn chung, việc Trung Quốc càn quấy trên Biển Đông thời gian gần đây là bước tiếp nối trong việc thực thi chính sách độc chiếm Biển Đông. Hành động này không chỉ xâm phạm chủ quyền của các nước ven Biển Đông mà còn đi ngược lại luật pháp quốc tế và nỗ lực của các nước trong khu vực khi tìm cách thúc đẩy tiến trình đàm phán COC hiệu quả, hiệu lực và có tính ràng buộc pháp lý. Với vai trò Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam cần thúc đẩy hơn nữa các biện pháp chính trị, ngoại giao để ASEAN đoàn kết, nhất trí lập trường chung trong đối phó hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, cũng như đàm phán COC.