Những tháng gần đây, Trung Quốc liên tục tăng cường các hoạt động khiêu khích, đe dọa và gây hấn trên Biển Đông. Để bảo vệ chủ quyền, lợi ích, hòa bình và ổn định trong khu vực, các nước ASEAN cần đoàn kết nội Khối đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc.
Trung Quốc gia tăng hoạt động khiêu khích
Những hành động hung hăng, đơn phương và cưỡng ép của Trung Quốc đối với các nước láng giềng Đông Nam Á như Việt Nam, Indonesia và Malaysia cũng như khu vực Đài Loan trong 5 tháng qua mạnh chưa từng có. Rõ ràng, những hậu quả kinh hoàng của COVID-19 đối với toàn cầu không tác động gì đến chiến lược hiếu chiến của Bắc Kinh. Một số nhà quan sát cho rằng việc Trung Quốc lập hai “khu” mới trực thuộc “thành phố Tam Sa” chỉ mang tính biểu tượng. Tuy nhiên, động thái này sẽ cải thiện việc quản lý hành chính và thúc đẩy các chính sách mới của Trung Quốc về Biển Đông. Bởi vì Trung Quốc gia tăng mở rộng sự hiện diện về mặt hành chính trên Biển Đông một cách âm thầm, nên ẩn giấu phía sau là những hậu quả thực sự cho các quốc gia tranh chấp khác. Các “khu” mới sẽ cung cấp các nguồn lực xây dựng và thực thi chính sách bổ sung cho “thành phố Tam Sa”, giúp những người lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi các chủ trương cụ thể. Bên cạnh đó, “Thành phố Tam Sa” và các tổ chức hành chính trực thuộc nằm trên tuyến đầu trong mặt trận biển Đông của Trung Quốc. Chính vì vậy, “thành phố” này chịu trách nhiệm hằng ngày đều phải thúc đẩy lợi ích về lãnh thổ của Trung Quốc. Việc tăng cường quy mô hành chính cho “Tam Sa” sẽ nâng cao vị trí tổng thể của Trung Quốc trên vùng biển này.
Bên cạnh đó, sự chia rẽ trong ASEAN đã tác động tiêu cực đến giải quyết tranh chấp tại Biển Đông với Trung Quốc. Trong khuôn khổ ASEAN, đồng thuận có nghĩa là không đạt được bất cứ điều gì nếu một trong 10 quốc gia thành viên phản đối đề xuất hoặc ý tưởng chung. Chính vì vậy, trong một thập kỷ qua, ASEAN không thể đồng thuận về cách đối phó với Trung Quốc để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn đang đạt được những “thành công” tại khu vực biển Đông. “Thành công” của Trung Quốc bắt nguồn chủ yếu từ 3 đặc điểm trong chính sách Biển Đông của họ: Thứ nhất là đòn bẩy. Để đạt các mục tiêu chính trị, Bắc Kinh lợi dụng sự mất cân bằng, là một nước lớn hơn, mạnh hơn so với các đối thủ. Trung Quốc khai thác sức mạnh công nghiệp, đặc biệt là năng lực đóng tàu, để tung vào Biển Đông một lực lượng đông đảo các tàu chiến, tàu hải cảnh và máy bay quân sự hơn bất kỳ nước nào có tuyên bố chủ quyền ở đây. Hơn nữa, Bắc Kinh thường xuyên kêu gọi các đội tàu đánh cá dân sự lớn nhất trên Biển Đông thực hiện các sứ mệnh hỗ trợ các mục tiêu chiến lược quốc gia. Thứ hai, đóng góp vào thành công của Trung Quốc là sự đảm bảo dối trá. Ngay cả khi nước này tham gia vào các hoạt động mang tính côn đồ trên Biển Đông, chính phủ Trung Quốc vẫn luôn trưng ra bộ mặt cam kết đối với nguyên tắc hòa bình, hài hòa và đạo đức. Ở cấp độ chung, Bắc Kinh luôn tuyên bố rằng Trung Quốc do Đàng cộng sản lãnh đạo là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, không xâm lược và không bắt nạt, ngay cả khi là một siêu cường. Minh họa cụ thể hơn cho vấn đề này là Bắc Kinh đã thể hiện sự ủng hộ đối với việc giảm căng thẳng, ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và đang tham gia vào các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Những hành động này nhằm che đậy các ý định thật sự của Trung Quốc và tạo ra một sự lạc quan không có căn cứ rằng, các ví dụ về hành vi ứng xử hung hăng của Trung Quốc là bất thường, bị giới hạn trong một số trường hợp cụ thể hay do một bên nào đó thực hiện mà chưa được phép của Bắc Kinh. Nhìn nhận vấn đề theo cách này sẽ làm gia tăng sự bất đồng giữa các nước trong khu vực về cách thức đối phó với Trung Quốc, tạo cơ hội cho Bắc Kinh gây chia rẽ và chinh phục. Thứ ba, góp phần vào thành công của Trung Quốc là việc “điều chế” các hành vi hung hăng. Trung Quốc kiên trì thúc đẩy các lợi ích trên Biển Đông, gây phương hại đến lợi ích của các nước khác. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã thận trọng lựa chọn số lượng, địa điểm, thời điểm và phương pháp gây áp lực để hạn chế tối đa các phản ứng ngược. Trung Quốc đã đánh giá chính xác rằng, Mỹ sẽ không gây chiến với Trung Quốc để ngăn chặn việc xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo đá chiếm đóng. Việt Nam là bên yêu sách trên Biển Đông bị thiệt hại nhiều nhất do các cuộc tấn công bạo lực của Trung Quốc bởi vì Việt Nam không có thỏa thuận hợp tác an ninh với Mỹ.
Theo một số chuyên gia, Trung Quốc đã thành công trong thời gian qua bởi vì họ “rất kiên nhẫn”. Trung Quốc luôn tìm cách đẩy mạnh hoạt động trên thực địa để khiến các quốc gia bị xâm phạm có cảm giác quen dần đi với các hành động đó. Họ luôn dùng chiến thuật mà các nhà nghiên cứu phương Tây gọi là “chiến thuật vùng xám”. Tức là họ luôn đe doạ khả năng chiến tranh, nhưng thực sự họ sử dụng các hành vi ở dưới ngưỡng của chiến tranh. Các hoạt động trên thực địa thì bao gồm hoạt động của các tàu chấp pháp của họ cùng với các tàu cá trá hình của các dân quân biển. Ngoài ra, luôn có sự hỗ trợ của lực lượng hải quân Trung Quốc đứng từ xa để “đe doạ”. Điều này sẽ tác động tâm lý đến các quốc gia trong tranh chấp, vì ngại đụng chạm và đe doạ từ Trung Quốc nên khiến cho các phản ứng bị kìm nén lại.
ASEAN cần đoàn kết hơn nữa
Mặc dù ưu tiên hàng đầu của ASEAN là xử lý đại dịch COVID-19, nhưng 10 nước thành viên phải cảnh giác trước các hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông. Tất cả các thành viên ASEAN phải hợp tác để thúc đẩy sự đoàn kết và thống nhất nội khối. Việc Philippines lên án hành động của tàu Trung Quốc đâm chìm tàu đánh cá Việt Nam là một khởi đầu mới. Tất cả các nước ASEAN phải cùng lên án mọi hành động gây hấn của Trung Quốc. Việt Nam và ASEAN, cùng với các đối tác khác có chung tầm nhìn về an ninh và ổn định khu vực, nên xây dựng khả năng răn đe dựa trên sức mạnh của chính mình, hợp tác quốc tế và sẵn sàng chiến đấu. Indonesia, nước đóng vai trò “thủ lĩnh” của ASEAN và không phải là bên tranh chấp, nhưng vẫn là nạn nhân trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc thời gian gần đây. Indonesia đã bày tỏ quan ngại nghiêm trọng và kêu gọi tất cả các bên kiềm chế.
Bên cạnh đó, các nước ASEAN nên tạm gác các tranh chấp riêng của mình với nhau để xây dựng sự đồng thuận mới của ASEAN. ASEAN phải ngồi vào “ghế lái” trong tất cả các sáng kiến an ninh khu vực, lấy luật pháp quốc tế như UNCLOS làm nền tảng. Ngoài ra, ASEAN nên bắt đầu tập trung bàn về một giải pháp giải quyết xung đột lâu dài mà được cả Bắc Kinh và Washington chấp nhận. ASEAN cần chấm dứt tình trạng không có khả năng đưa ra giải pháp cho cuộc xung đột quân sự có nguy cơ bùng nổ khi Trung Quốc hoặc Mỹ trở nên hung hăng hơn.
Đối với Việt Nam, trong vai trò Chủ tịch ASEAN và là ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam cần thể hiện vai trò trung tâm hơn nữa, tích cực lên tiếng phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Bên cạnh đó, Việt Nam cần thúc đẩy tiến trình đối thoại để tiến tới có một COC ràng buộc về mặt pháp lý, dựa trên các quy tắc của Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, bảo đảm tự do hàng hải và tự do hàng không trên Biển Đông. Với tư cách là chủ tịch của ASEAN năm nay, Việt Nam cần hợp tác chặt chẽ với Indonesia, hướng tới mong muốn đoàn kết và đạt được lập trường chung ASEAN trong các cuộc đàm phán COC với Trung Quốc.