Trung Quốc đang cố tình tạo cơ sở pháp lý bằng việc ban bố các quyết định hành chính, nhằm chống lưng cho những hành động phạm pháp của họ trên thực tế, như: ngăn cấm, cản trở, bắt bớ, gây tổn hại về tài sản, tính mạng… đối với mọi hoạt động hợp pháp của cộng đồng khu vực và quốc tế trong Biển Đông.
Đảo Phú Lâm của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép
Theo Tiến sĩ Trần Công Trục – nguyên Trưởng ban Ban Biên giới Chính phủ, Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch COVID-19 để tiến hành một loạt động thái gây căng thẳng trong khu vực Biển Đông, khiến dư luận hết sức quan ngại và phẫn nộ lên án. Theo nhận xét, đánh giá của nhiều học giả, chính trị gia, chuyên gia quân sự, pháp lý… thì những động thái này đều đã được Trung Quốc trù tính từ trước, vi phạm chủ quyền của Việt Nam và rất nguy hiểm. Vào thời điểm hiện tại, chỉ riêng việc Trung Quốc công bố quyết định nâng cấp đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” cũng cho thấy các “lớp lang” được Trung Quốc dàn dựng một cách chủ động, bài bản mà mục đích của họ là nhằm để: (i) Bổ sung vào hồ sơ pháp lý có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc chưa tìm thấy bất kỳ bằng chứng pháp lý nào để chứng minh Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền lịch sử của mình ở đây như thế nào, ngoại trừ những ghi chép khiên cưỡng, vô căn cứ trong các sử sách, bản đồ lịch sử do họ công khai trích dẫn. Trung Quốc thiếu bằng chứng chứng minh, nên giờ họ đang bổ sung khoảng trống, điểm đen trong hồ sơ pháp lý, tiếp tục củng cố yêu sách chủ quyền phi lý của họ. (ii) Cố tình tạo cơ sở pháp lý bằng việc ban bố các quyết định hành chính, nhằm chống lưng cho những hành động phạm pháp của họ trên thực tế, như: ngăn cấm, cản trở, bắt bớ, gây tổn hại về tài sản, tính mạng… đối với mọi hoạt động hợp pháp của cộng đồng khu vực và quốc tế trong Biển Đông. (iii) Bằng những quyết định hành chính này, cùng với việc họ đã đầu tư cải tạo các thực thể địa lý ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thành những đảo nhân tạo rất lớn, Trung Quốc muốn chứng tỏ rằng các thể địa lý ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn không phải là những đảo thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng, trở thành những thực thể địa lý có đủ điều kiện để mở rộng các vùng biển phụ cận và liền kề có chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý (tính từ hệ thống đường cơ sở của 2 quần đảo này) theo cách “giải thích và áp dụng” của Trung Quốc sai với quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982.
Việc Trung Quốc ra quyết định thành lập trái phép các đơn vị hành chính đối với các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam là mưu đồ họ theo đuổi từ lâu, được họ đẩy mạnh ngay sau khi dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 và chiếm các đảo thuộc Trường Sa năm 1988. Họ muốn hợp thức hóa những hành động vũ lực đó bằng các biện pháp hành chính, dân sự, pháp lý. Thực tế, họ đã thành lập các đơn vị hành chính ở đây từ những năm 1990 của thế kỷ trước, sau khi hoàn thành chiếm đóng bằng quân sự ở hai quần đảo này. Năm 2012, sau khi Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển, thì Trung Quốc tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” để quản lý quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam), Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam) và Trung Sa (bãi Macclesfield) như một hành động trả đũa. Tháng 9-2017, họ đưa ra chiến thuật mới mang tên “Tứ Sa”, cho rằng Trung Quốc có chủ quyền với 4 nhóm đảo gồm 3 nhóm trên và thêm Đông Sa (quần đảo Pratas hiện do Đài Loan quản lý), để đòi hỏi quyền được hưởng vùng đặc quyền kinh tế xung quanh 4 nhóm này. Đó là một vài mốc trong chuỗi hành động của họ. Mỗi lần như vậy, Việt Nam đều có công hàm phản đối mạnh mẽ. Lần này, họ tiếp tục vi phạm chủ quyền của Việt Nam, công bố phê duyệt thành lập đơn vị hành chính cấp quận, nâng cấp đơn vị hành chính để thay mặt nhà nước Trung Quốc quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Về biện pháp bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông, Tiến sỹ Trần Công Trục cho rằng trước tiên là xây dựng các lực lượng về hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư, để làm nhiệm vụ thực thi chủ quyền, bảo vệ các quyền hợp pháp ở các vùng biển, đảo, trong Biển Đông. Việt Nam đã xây dựng các khu dân cư, trường học, trạm nghiên cứu trên các đảo và bảo vệ các đảo đó một cách vững chắc. Việt Nam cũng đã sưu tầm nhiều tư liệu lịch sử có giá trị pháp lý để hoàn thiện hồ sơ pháp lý nhằm phục vụ cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trên lĩnh vực truyền thông, Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc tập huấn, tuyên truyền về biển, đảo, mang lại hiệu quả tích cực. Có thể nói, thời gian gần đây, tôi đánh giá nhận thức, ý thức của người dân đã tiến một bước rất xa. Trước đây, phản ứng của người dân có tính chất tự phát, nhưng theo tôi, bây giờ họ đã chuyển sang tự giác hơn. Và nhân dân Trung Quốc, bạn bè quốc tế đã hiểu rõ hơn lập trường nhất quán và rõ ràng của Việt Nam. Việt Nam bảo vệ chủ quyền của mình một cách cương quyết, nhưng cũng rất kiên trì, mềm mỏng, không để Trung Quốc lợi dụng, kiếm cớ gây xung đột, chiến tranh. Việt Nam thực hiện phương châm “vừa đấu tranh vừa hợp tác”, kiên quyết nhưng phải kiên trì.
Bên cạnh đó, rất nhiều người khi nhắc đến Biển Đông đều thể hiện nguyện vọng làm sao cản trở, kiềm chế được tham vọng độc chiếm của Trung Quốc. Đó là tham vọng bất hợp pháp, trái với nguyên tắc của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, trái với mối quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và các nước ASEAN cũng như giữa Trung Quốc với Việt Nam. Chúng ta phải có trách nhiệm không để tình trạng sai trái đó tiếp tục gây nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh, hòa bình khu vực, thậm chí ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hiện giờ, để ngăn cản điều nguy hiểm có thể xảy ra đó, trước hết chúng ta phải đoàn kết. Muốn đoàn kết thì phải trên cơ sở tư duy thống nhất, hiểu rõ các quyền hợp pháp của chúng ta đối với các vùng biển, đảo đến đâu, quy chế pháp lý như thế nào… Về pháp lý, chúng ta phải chuẩn bị các phương án đấu tranh ngoại giao cao hơn, kể cả việc kiện Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế. Vì đó là biện pháp giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình, văn minh. Anh em trong nhà mà xảy ra chuyện với nhau, có thể đưa ra tòa, nhưng vẫn là anh em, đó là một cách ứng xử sòng phẳng, văn minh và hiện đại…
Theo Tiến sỹ Trần Công Trục, Việt Nam không phải là không tính đến phương án đưa Trung Quốc ra cơ quan tài phán quốc tế. Nhưng kiện cái gì, thủ tục kiện như thế nào cho phù hợp với thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc tế, hiệu quả đến đâu… là những điều cần cân nhắc, tính toán thấu đáo. Mặt khác, chúng ta đã chuẩn bị về lực lượng tại chỗ như cảnh sát biển, kiểm ngư và các lực lượng khác, nhưng nên nhớ rằng phải hiểu rõ thủ tục pháp lý trong xử lý các hành vi sai phạm trên Biển Đông, chứ không phải lúc nào cũng dùng đến lực lượng quân sự được. Nếu không xử lý khéo, chúng ta đang ở thế thượng tôn pháp luật chính nghĩa, cuối cùng lại trở thành nạn nhân. Trung Quốc đang tính toán những bước đi ngang ngược, nếu chúng ta không biết kiềm chế thì rất có thể mắc vào bẫy và lợi bất cập hại. Không thể để Trung Quốc lợi dụng gây ra xung đột quân sự, điều đó không chỉ ảnh hưởng đến an ninh khu vực mà còn ảnh hưởng đến kinh tế – xã hội. Thời kỳ hậu Covid-19 này, thế giới lao đao và suy thoái kinh tế, thế nên chúng ta càng cần phải lưu ý và cảnh giác.
Cùng quan điểm trên, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thụy Điển, Cố vấn cao cấp Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ quốc tế (CSSD) nhận định việc Trung Quốc đưa ra tuyên bố như vậy trong thời điểm này có nhiều lý do, xuất phát từ những khó khăn trong nước, buộc Trung Quốc phải đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài để hướng lái sự chú ý của dư luận. Ông Nguyễn Ngọc Trường cho rằng tuyên bố của Trung Quốc khi thành lập đơn vị hành chính ở Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam là phi lý, bất chấp dư luận quốc tế và đi ngược lại với các nguyên tắc và luật lệ quốc tế. Trước tình hình này, chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần nâng cao cảnh giác, không để sơ sẩy ở những địa điểm, khu vực mình đã kiểm soát trên thực địa. Mặt khác, chúng ta cần sử dụng tổng hợp các biện pháp, kết hợp đấu tranh dư luận từ bên ngoài, tăng cường hợp tác quốc tế, cũng như sử dụng kênh ngoại giao trực tiếp với Trung Quốc để hóa giải căng thẳng.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Cù Chí Lợi, Viện trưởng Viện nghiên cứu Châu Mỹ (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) nhận định, trong lúc dịch COVID-19 tác động đến nhiều nước trong khu vực và thế giới, Trung Quốc lợi dụng thời điểm này liên tục thực hiện các bước trong ý đồ tranh giành chủ quyền trên Biển Đông. Theo chuyên gia, việc Trung Quốc thành lập trái phép cơ quan hành chính tại những nơi thuộc chủ quyền của Việt Nam là hành vi ngang ngược, ngạo mạn. Điều này đi ngược lại với các chuẩn mực trong quan hệ quốc tế cũng như bất chấp, coi thường các nguyên tắc, luật lệ quốc tế.
Chuyên gia Cù Chí Lợi cho rằng, khác với những hành vi trước đây ở Biển Đông, hành động trái luật pháp mới đây của Bắc Kinh là vấn đề hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh tại khu vực. Thứ nhất, một khi thành lập cơ quan hành chính, Trung Quốc sẽ có nhiều hành vi tiếp theo như thành lập đơn vị cơ sở, cơ quan theo chức năng, phân cấp, phân quyền trong hệ thống hành chính của Trung Quốc. Thứ hai, Trung Quốc sẽ gia tăng đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng ở những nơi mà họ tuyên bố phi pháp thành lập đơn vị hành chính. Chiến thuật của Trung Quốc là từ việc xây dựng những ngôi nhà, trụ sở làm việc với mục đích dân sinh, dần dần Trung Quốc sẽ đẩy mạnh việc phát triển thành những tòa nhà, thành phố trên biển, không khác gì trên đất liền. Thứ ba, sau việc tuyên bố thành lập phi pháp đơn vị hành chính, Trung Quốc có thể triển khai, điều động quân đội ra canh giữ, bảo vệ chủ quyền phi pháp ở các khu vực mà nước này đã bất chấp đạo lý để tuyên bố chủ quyền. Thứ tư, một khi đã đặt được đơn vị hành chính ở những nơi mà nước này tuyên bố chủ quyền phi pháp, Trung Quốc sẽ mở rộng việc xâm lấn các đảo đá khác ở Biển Đông, gia tăng hiện diện về quân sự của nước này trên biển. Sau động thái này, chắc chắn Trung Quốc sẽ có nhiều hoạt động tiếp theo ở 2 khu vực đã tuyên bố chủ quyền phi pháp. Do đó, Việt Nam phải sẵn sàng các biện pháp để phản ứng một cách kịp thời, đồng thời kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Vì rõ ràng những động thái này của Trung Quốc là phi pháp, chắc chắn dư luận quốc tế sẽ lên án.
Trước những hành vi gây hấn của Trung Quốc gần đây trên Biển Đông, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh: “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc đưa vào sử dụng các trạm quan trắc trên các cấu trúc xây dựng, cải tạo trái phép ở quần đảo Trường Sa đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay hoạt động nói trên, tuân thủ nghiêm “Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” và Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh, ổn định ở Biển Đông và khu vực cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).