Sunday, November 24, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaSự khác biệt giữa Mỹ và TQ trên vấn đề Biển Đông

Sự khác biệt giữa Mỹ và TQ trên vấn đề Biển Đông

Cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng gay gắt. Cả hai bên đều có những động thái mạnh mẽ ở Biển Đông thời gian qua với những phát biểu qua lại chỉ trích lẫn nhau cùng với việc điều các phương tiện vũ khí hiện đại nhất đến hoạt động ở Biển Đông, liên tiếp tiến hành tập trận…làm cho tình hình Biển Đông căng thẳng.

Tuy nhiên, có sự khác biệt cơ bản giữa Mỹ và Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông được thể hiện qua cả lời nói và hành động, chúng ta cùng xem từng khía cạnh của vấn đề:

1. Về quan điểm, thái độ pháp lý

Mưu đồ của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, coi Biển Đông như “ao nhà” của họ. Trung Quốc yêu sách đến 90% diện tích Biển Đông, chà đạp lên quyền và lợi ích chính đáng của các nước ven Biển Đông được xác định phù hợp với luật pháp quốc tế.

Một là, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) được coi là “Hiến pháp của đại dương”, có trên 160 quốc gia thành viên. Trung Quốc đã ký và phê chuẩn UNCLOS, nhưng ngang nhiên phớt lờ các nghĩa vụ của mình được quy định trong UNCLOS.

Luật pháp quốc tế được thể hiện trong UNCLOS là nền tảng cho một trật tự quốc tế trên biển, trong đó có Biển Đông dựa trên luật pháp. Nó quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi quốc gia ven biển trong việc xác định các vùng biển của mình và thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng biển hợp pháp của mình, có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc gia ven biển khác. UNCLOS quy định quyền và sự tự do hàng hải; là căn cứ cho việc bảo vệ, bảo tồn các hệ sinh thái biển. UNCLOS thiết lập các nguyên tắc mà tất cả các quốc gia – bất kể lớn hay nhỏ về diện tích, về sức mạnh quân sự hay về kinh tế – đều có thể khai thác hợp pháp các nguồn tài nguyên ngoài khơi của mình.

Trung Quốc là thành viên UNCLOS, lại là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, nhưng họ không tuân thủ các quy định của UNCLOS, thậm chí chà đạp lên các quy định của UNCLOS. Họ tự vạch ra cái gọi là “luật rừng” theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” để bắt nạt các nước ven Biển Đông. Các nước khu vực và cộng đồng quốc tế thường xuyên kêu gọi Bắc Kinh tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS nhưng họ đều “bỏ ngoài tai”

Mỹ chưa phải là thành viên UNCLOS, nhưng Washington thừa nhận những điều khoản của UNCLOS về việc sử dụng đại dương một cách truyền thống là sự phản ánh luật pháp quốc tế, mang tính thông lệ. Mỹ khẳng định tuân thủ những điều khoản của UNCLOS. Những tuyên bố về chính sách đối với Biển Đông của Mỹ gần đây thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật ở Biển Đông. Tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm 27/6/2020 ủng hộ lập trường của ASEAN giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở quy định của UNCLOS được thể hiện trong Tuyên bố Hội nghị thượng đỉnh ASEAN trực tuyến (26/6/2020).

Công thư của Đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc hôm 01/6 và Tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo hôm 13/7/2020 đều thể hiện rõ tinh thần tôn trọng và tuân thủ các quy định của UNCLOS; kêu gọi các quốc gia làm rõ yêu sách của mình phù hợp với luật pháp quốc tế được phản ánh trong UNCLOS, yêu cầu Trung Quốc và các nước thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong UNCLOS. Trái ngược hoàn toàn với Trung Quốc, Mỹ đứng về phía chính nghĩa, đứng về phía luật pháp quốc tế, ủng hộ các quốc gia ven Biển Đông thực hiện các quyền lợi hợp pháp của mình theo UNCLOS.

Hai là, ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) ra phán quyết kết luận không có cơ sở pháp lý cho bất cứ quyền lịch sử, quyền chủ quyền và quyền tài phán nào của Trung Quốc trong yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc ở Biển Đông. Là thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tuân thủ phán quyết của PCA. Thế nhưng, Bắc Kinh đã coi phán quyết của PCA như “tờ giấy lộn” và tiếp tục đẩy mạnh các yêu sách phi pháp của họ thông qua các hoạt động lấn lướt, bắt nạt các nước láng giềng ven Biển Đông.

Trong hơn 4 năm qua, kể từ khi phán quyết ra đời, cộng đồng quốc tế theo dõi với mối quan ngại ngày càng lớn khi Bắc Kinh phớt lờ phán quyết của PCA và đẩy mạnh chiến dịch đe dọa, xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của các nước láng giềng ven Biển Đông. Bất chấp luật pháp quốc tế, trong đó có phán quyết của PCA, Trung Quốc hành động theo kiểu gây rối, cưỡng chế, phá hoại, đưa thông tin sai lệch, chối bỏ các thỏa thuận và coi thường các hiệp ước quốc tế. Bắc Kinh lợi dụng đại dịch Covid-19 để thúc đẩy các yêu sách phi pháp của họ đi xa hơn, thay thế luật pháp quốc tế bằng tư duy “chân lý thuộc về kẻ mạnh”.

Trong khi đó, Mỹ coi phán quyết của PCA là đóng góp quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu chung là giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông; coi phán quyết của PCA là cuối cùng và ràng buộc về pháp lý.

Trong Tuyên bố hôm 13/7/2020, Mỹ căn cứ vào phán quyết 12/7/2016 bác bỏ hầu hết các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông từ “đường lưỡi bò” cho đến cái gọi là yêu sách “Tứ Sa” gần đây. Theo đó, Mỹ tuyên bố vì Trung Quốc chưa bao giờ đưa ra được một yêu sách hàng hải hợp pháp và đáng tin cậy nào, nên Mỹ phản đối bất cứ yêu sách vùng biển nào ngoài 12 hải lý của các cấu trúc nổi ở Biển Đông, phản đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các bãi ngầm ở Biển Đông.

Tuyên bố 13/7 của Mỹ bác bỏ mọi yêu sách hàng hải của Trung Quốc ở những vùng nước xung quanh bãi Tư Chính (ngoài khơi Việt Nam), cụm bãi cạn Luconia (ngoài khơi Malaysia), vùng biển thuộc EEZ của Brunei, và đảo Natuna Besar (ngoài khơi Indonesia); coi bất kỳ hành động đơn phương nào của Trung Quốc hoặc hành vi quấy rối việc đánh cá và phát triển năng lượng của các bên khác ở những vùng biển này là phi pháp. Tuyên bố của Mỹ không chỉ thể hiện sự coi trọng giá trị phán quyết 12/7/2016 của PCA mà còn là bước cụ thể hóa thêm những nội dung phán quyết vào các khu vực cụ thể ở Biển Đông.

Điểm quan trọng nhất là trong khi Mỹ ủng hộ việc các quốc gia ven Biển Đông sử dụng biện pháp pháp lý để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông thì Trung Quốc lại phản đối việc sử dụng pháp lý bởi chính họ biết rõ các yêu sách của họ ở Biển Đông là không có căn cứ pháp lý.

2. Về các hành động trên thực địa ở Biển Đông

Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động bồi đắp, mở rộng và quân sự hóa các cấu trúc ở Biển Đông thành các tiền đồn quân sự để khống chế, kiểm soát Biển Đông, ngăn cản tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; đưa tàu khảo sát cùng các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển xâm lấn vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các nước ven Biển Đông bất chấp phản đối quốc tế; cho tàu hải cảnh đâm chìm các tàu cá của ngư dân các nước ven Biển Đông; cho số lượng lớn tàu cá dưới sự hộ tống của các tàu hải cảnh hoạt động trái phép trong vùng biển của các nước láng giềng; điều các máy bay chiến đấu tới các căn cứ quân sự mà họ xây dựng bất hợp pháp ở Biển Đông và liên tiếp tiến hành diễn tập quân sự bắn đạn thật để hăm dọa các nước láng giềng ven Biển Đông. Ý đồ của Bắc Kinh là tạo ra một thực trạng mới ở Biển Đông và bắt các nước phải chấp nhận.

Trong khi đó, các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông dựa trên quy định của luật pháp quốc tế phản ánh trong UNCLOS. Các chiến dịch tự do hàng hải của hải quân Mỹ ở Biển Đông, kể cả trong phạm vi các cấu trúc mà Trung Quốc chiếm đóng là nhằm duy trì trật tự dựa trên luật lệ, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông theo tinh thần “tàu chiến và máy bay Mỹ hoạt động ở bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”. Việc Mỹ tiến hành diễn tập quân sự kể cả tàu sân bay Mỹ là nhằm ngăn chặn những hành động leo thang của Trung Quốc, phá mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.

Trên thực tế mọi người đều thấy rõ, lực lượng hải quân và tuần duyên Mỹ chưa có bất kỳ một hành động đâm va nào vào tàu cá của ngư dân các nước ven Biển Đông và Mỹ chưa có bất cứ một hành vi nào quấy nhiễu hay gây khó khăn cho các hoạt động dầu khí của các nước ven Biển Đông trong các vùng biển của các nước này được xác định phù hợp với UNCLOS. Không những không có hành động gây hại cho ngư dân Việt Nam, Mỹ còn hợp tác hỗ trợ ngư dân Việt Nam trước những đe dọa bất hợp pháp trên biển thông qua việc ký Biên bản ghi nhớ về việc Mỹ hỗ trợ Việt Nam tăng cường năng lực thực thi pháp luật thuỷ sản và quản lý nghề cá.

3. Từ góc độ khu vực và quốc tế

Trong khi Mỹ luôn kêu gọi và ủng hộ sự đồng thuận trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông, ủng hộ ASEAN có tiếng nói chung và phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong duy trì hòa bình, ổn định khu vực nói chung và xử lý các tranh chấp Biển Đông nói riêng thì Trung Quốc lại tìm cách phá hại ASEAN. Bắc Kinh dùng mọi thủ đoạn từ dọa nạt cho đến mua chuộc bằng tài chính để phân hóa, chia sẽ ASEAN trên vấn đề Biển Đông, thậm chí can thiệp, phá rối để Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN tại Campuchia năm 2012 không ra được Tuyên bố chung vì vấn đề Biển Đông.

Trong khi các nước khu vực và cộng đồng quốc tế phản đối yêu sách phi lý của Bắc Kinh ở Biển Đông; thường xuyên lên án các hành vi, cách hành xử và thái độ của Trung Quốc đối với Biển Đông thì quan điểm và lập trường của Mỹ trên vấn đề Biển Đông lại nhận được sự hoan nghênh của nhiều nước, trong đó có tất cả các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp Biển Đông (Philippines, Việt Nam, Malaysia, Indonesia và gần đây nhất là Brunei) đều đã lên tiếng ủng hộ quan điểm về Biển Đông của Mỹ dựa trên luật pháp quốc tế.

Có lẽ chưa tìm thấy một quốc gia nào lên tiếng ủng hộ yêu sách và các hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông mà chỉ toàn bày tỏ sự lo ngại, phê phán. Tuyên bố 13/7 của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo về Biển Đông không chỉ nhận được sự hoan nghênh của các nước liên quan đến tranh chấp Biển Đông mà còn nhận được sự ủng hộ của nhiều nước khác như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ, Hàn Quốc….

Đưa ra những phân tích, so sánh kể trên để thấy rõ ai chính là kẻ đang gây rối ở Biển Đông. Bắc Kinh luôn tìm cách “đổi trắng thay đen” những gì liên quan đến Biển Đông, song không thể làm thay đổi sự thật khách quan mà mỗi người có lương tri trên thế giới đều có thể nhận ra.

RELATED ARTICLES

Tin mới