Truyền thông quốc tế ngày 28/9 dẫn lời Đại sứ Trung Quốc tại Manila Hoàng Khê Liên (Huang Xilian) khẳng định Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Philippines Duterte đã đạt được ‘đồng thuận’ để ‘gác lại’ các đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển đang tranh chấp.
Quan chức ngoại giao Trung Quốc xác nhận thông tin này chỉ vài ngày sau khi Duterte tuyên bố trước Đại hội đồng LHQ rằng sẽ duy trì phán quyết mà Tòa trọng tài đưa ra năm 2016, trong đó vô hiệu các yêu sách của Trung Quốc về Biển Đông.
Tại hội thảo trực tuyến về quan hệ Trung Quốc-Philippines hôm 25/9, Hoàng Khê Liên cho biết: “Hai nhà lãnh đạo Tập Cận Bình và Duterte đã đạt được sự đồng thuận quan trọng về việc hai bên sẽ thực thi một cách mạnh mẽ nỗ lực gác lại tranh chấp trên biển, quản lý tình hình thông qua tham vấn song phương, tăng cường đối thoại và hợp tác – mục đích là để động lực vững chắc này của quan hệ song phương và cũng là kim chỉ nam cho con đường phía trước có thể được bảo tồn và phát huy.
Lập trường của Trung Quốc về cái gọi là ‘phán quyết trọng tài’ đã rất rõ ràng: chúng tôi không chấp nhận và không công nhận phán quyết này. Hai nhà lãnh đạo đã nhất trí rằng hai bên nên khép lại chương cũ và gác lại những khác biệt”.
Tuy nhiên, Hoàng Khê Liên không cho biết hai bên đạt được thỏa thuận như vậy vào thời điểm nào. Hoàng Khê Liên nhắc lại rằng “vấn đề Biển Đông chỉ là một phần nhỏ của quan hệ Trung Quốc-Philippines, hay như Bộ trưởng Ngoại giao Teodoro Locsin nói, ‘chỉ là một viên sỏi nhỏ’ trên con đường dẫn đến mục tiêu kinh tế đôi bên cùng có lợi và chúng ta không được vấp phải viên sỏi nhỏ đó.”
Ông cũng chỉ ra rằng số lượng các hợp đồng mới của Trung Quốc cho các dự án ở Philippines đã tăng “26,5% trong nửa đầu năm”, bất chấp đại dịch COVID-19, và gọi đây là bằng chứng cho thấy mối quan hệ mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Trả lời phỏng vấn trong chương trình tin tức trực tuyến Viewpoint hôm 27/9, người phát ngôn của Tổng thống Philippines xác nhận hai bên đã thực thi một thỏa thuận để “thực hiện các vấn đề mà chúng tôi có thể tiến hành, bao gồm thương mại và đầu tư” vì hai bên “không thể giải quyết tranh chấp lãnh thổ đang chờ giải quyết”. Năm 2018, Bắc Kinh và Manila đã nhất trí về một thỏa thuận thăm dò dầu khí chung.
Trong dòng sự kiện đó, ngày 29/7/2020, phái đoàn thường trực của Malaysia tại LHQ đã gửi công hàm về quan điểm của họ về vấn đề Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa (CLCS), trong đó khẳng định rằng các yêu sách biển của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý theo luật quốc tế. Trước đó, bất luận các tuyên bố chủ quyền chồng lấn trên Biển Đông, cựu Thủ tướng Najib đã ký kết các thỏa thuận nhiều tỷ USD với Trung Quốc, bao gồm thỏa thuận thu mua trang thiết bị quân sự của Trung Quốc năm 2016 – thỏa thuận đầu tiên trong lịch sử Malaysia. Hơn nữa, Malaysia và Trung Quốc đã ký kết Biên bản Ghi nhớ về Hợp tác Quốc phòng, nêu bật hợp tác hải quân giữa hai nước. Không giống như ông Najib, người hoan nghênh Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Bắc Kinh và thúc đẩy quan hệ quân sự hơn nữa, người kế nhiệm ông – cựu Thủ tướng Mahathir – đã tìm cách đàm phán lại về các thỏa thuận với Trung Quốc dưới thời ông Najib. Ông Mahathir cũng nhấn mạnh rằng ông không muốn thấy các tàu chiến xuất hiện tại khu vực Biển Đông tranh chấp và Eo Malacca. Malaysia dường như đã chuyển hướng chính sách đối ngoại từ thời chính phủ ông Najib, vốn theo xu hướng nhân nhượng Trung Quốc, sang chính sách dưới thời chính phủ Mahathir, vốn ủng hộ chính sách đối ngoại “không liên kết”, nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương và không quân sự hóa các khu vực biển đang tranh chấp.
Dưới thời chính phủ Liên minh Hy vọng (PH) của Thủ tướng Mahathir, Sách trắng quốc phòng (DWP) 2020 đầu tiên của Malaysia được công bố, trong đó nêu bật tầm nhìn chiến lược của Malaysia. Đặc biệt, văn bản này xác định các yêu sách biển của Malaysia tại Biển Đông là quan tâm an ninh hàng đầu của họ. Theo đó, công hàm của Malaysia thể hiện quan điểm cứng rắn nhất của Malaysia tại Biển Đông trong thời gian gần đây và đặt nó là ưu tiên hàng đầu trong DWP.
Cuộc khủng hoảng chính trị năm 2020 tại Malaysia, từ đó đã dẫn tới việc chỉ định Thủ tướng đương nhiệm Muhyiddin Yassin, kéo theo một số bất ổn nhất định trong quan điểm của Malaysia tại Biển Đông. Trong cuộc gặp của ông Yassin với Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa hôm 7/9/2020, hai bên có trao đổi quan điểm về Biển Đông, tuy nhiên chưa rõ các bên bàn luận gì.
Trước đó, trong một cuộc họp vào tháng 9/2019, cựu Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah đã nhất trí với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị về việc tiến hành đàm phán song phương trực tiếp.
Trong bối cảnh Mỹ và Trung Quốc gia tăng căng thẳng xung quanh vấn đề Biển Đông, Bắc Kinh đã hối thúc Kuala Lumpur đạt được bước đi đột phá này, tuy vậy,đã một năm qua, thỏa thuận này vẫn chưa có dấu hiệu tiến triển.
Trung Quốc và Malaysia duy trì liên lạc về cơ chế đàm phán 1-1, song không cho biết phạm vi hoặc chi tiết cơ chế. Mục đích của Trung Quốc là tìm cách áp đặt cơ chế đối thoại song phương với từng bên tranh chấp, triển khai chính sách “gác tranh chấp cùng khai thác” của họ. Bắc Kinh cũng áp dụng chính sách này với Brunei, Philippines và Việt Nam.
Từ năm 2014, Trung Quốc và Việt Nam đã có các cuộc đàm phán tương tự, cụ thể là việc phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cùng khai thác các nguồn tài nguyên cá ở Vịnh Bắc Bộ. Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cuộc họp gần đây nhất được tổ chức vào ngày 9/9. Chỉ tính đến cuối năm 2019, Nhóm công tác về vùng biển cửa ngoài Vịnh Bắc Bộ giữa 2 nước đã tổ chức 11 vòng đàm phán về vấn đề cùng khai thác ở các vùng biển liên quan.
Chính sách “gác tranh chấp cùng khai thác” của Trung Quốc đã bị nhiều học giả trên thế giới phản bác rất nhiều. Mặc dù Trung Quốc đề nghị khai thác chung, nhưng mặt khác Trung Quốc vẫn khẳng định khu vực khai thác chung “chủ quyền lãnh thổ là thuộc Trung Quốc”. Trên biển Đông, dù rất muốn khai thác chung, nhưng Trung Quốc vẫn duy trì yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm gần 80% biển Đông và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng với hai khu vực khác là Pratas và Macclesfield mà Trung Quốc gọi là quần đảo Đông Sa và quần đảo Trung Sa. Quan trọng hơn, phần lớn các khu vực mà Trung Quốc đề nghị khai thác chung đều nằm trên khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa hiển nhiên thuộc quyền chủ quyền của nước khác.
Một nhân vật nắm rõ công tác hoạch định chính sách của Malaysia nói: “Quan điểm chính thức của chúng tôi là cởi mở với điều này, song chúng tôi đã cố gắng hòa hoãn nhiều nhất có thể. Đại dịch đã cho chúng tôi một lý do chính đáng để ngăn chặn nó. Chúng tôi không nghĩ rằng đây sẽ là một thỏa thuận có lợi với chúng tôi, đặc biệt là khi nhìn sang trường hợp Philippines và Việt Nam”.
Một người thông thạo chính sách khác của Malaysia nhất trí với quan điểm trên, cho rằng việc thiết lập cơ chế tham vấn song phương “là một tiền lệ nguy hiểm”. Ông nói: “Chúng tôi muốn các cuộc thảo luận với Trung Quốc ở hình thức đa phương, không phải song phương. Hình thức song phương là những gì Trung Quốc muốn… Rốt cuộc, họ đang đưa chúng tôi dấn sâu từng bước một”.
Trong trường hợp Philippines, Cựu thẩm phán Tòa án tối cao Antonio Carpio, cho rằng Duterte bị đang bị Trung Quốc “dắt mũi, bỏ qua phán quyết mà chẳng được gì”. ông ta phát biểu trên báo chí rằng: “Duterte gác lại phán quyết đảm bảo các khoản cho vay và đầu tư từ Trung Quốc, nhưng trong số 24 tỷ USD mà Bắc Kinh đã hứa cho các khoản vay và đầu tư, chỉ có chưa đến 5% thành hiện thực khi nhiệm kỳ của ông Duterte chỉ còn chưa đầy hai năm nữa. Với tình hình đại dịch và tình trạng trì trệ của nền kinh tế Trung Quốc, Duterte không thể mong đợi gì hơn nữa từ Trung Quốc”.
Có lẽ các quốc gia Đông Nam Á tham gia trực tiếp trong tranh chấp biển Đông cần thận trọng trước âm mưu và dã tâm này của Trung Quốc.