Năm 2010, sách Giấc mơ Trung Quốc của Đại tá Giải phóng quân Lưu Minh Phúc xuất bản, cho thấy người Trung Quốc (TQ) đang mơ ước trở thành quốc gia nhất thế giới trong mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá v.v…, tranh ngôi Số Một thế giới từ tay nước Mỹ.
Giờ đây họ lại mơ ước đưa tiếng nói và chữ viết của họ trở thành ngôn ngữ hàng đầu toàn cầu. Nguyện vọng đó thể hiện rõ trong bài Làm gì để tiếng Trung Quốc trở thành ngôn ngữ thông dụng thứ hai thế giới đăng trên Quang minh nhật báo ngày 04/01/2020, tác giả là Giáo sư Lý Vũ Minh, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Ngôn ngữ quốc gia, Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học quốc tế TQ, Bí thư Đảng uỷ Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh.
Ai cũng biết, chữ Hán khó học nhất; do đó Hán ngữ khó có thể được cả thế giới học và dùng như một ngôn ngữ thông dụng sau Anh ngữ. Vì sao người TQ có tham vọng lớn như vậy?
Vì ngôn ngữ đem lại sức mạnh. Con người suy nghĩ bằng ngôn ngữ, nó là cái vỏ vật chất của tư duy; nhờ thế người ta biết được ý nghĩ của nhau. Và do hiểu nhau mà loài người biết kết nối lại, phát huy được trí tuệ và sức mạnh tập thể, nhờ đó trở thành loài mạnh nhất trong muôn loài. Từ thế kỷ 20 trở đi, ngôn ngữ học ngày càng được coi trọng, trở thành trọng tâm nghiên cứu của triết học. Nhà ngôn ngữ học trở thành nhà triết học. Nhận thức về ngôn ngữ được mở rộng, nâng cao. Ngày nay ngôn ngữ được hiểu như là khả năng trí tuệ của con người. Giới triết gia gọi loài người là Động vật ngôn ngữ (Language animal). Ngôn ngữ được coi là ngôi nhà của sự tồn tại (Language is the house of being) và loài người sống trong ngôn ngữ. Tóm lại, ngôn ngữ vô cùng quan trọng!
Hiện nay tiếng Anh là ngôn ngữ mạnh nhất thế giới, được hầu hết các nước trọng dụng. Điều đó đem lại ưu thế cho những nước dùng tiếng Anh. Những năm 1960, Lý Quang Diệu một mình chống lại sự phản đối của cộng đồng người Hoa chiếm hai phần ba số dân Singapore, kiên quyết chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức của nước này. Thực tế cho thấy lựa chọn đó đã góp phần quan trọng đưa Singapore trở thành nền kinh tế phát triển hàng đầu châu Á. Biết tiếng Anh là một ưu thế người lao động nào cũng muốn có, vì như thế sẽ dễ kiếm việc làm. Thanh niên TQ hăng hái học tiếng Anh tới mức có người cảnh báo điều đó bất lợi cho phát triển Hán ngữ.
Hán ngữ có nhiều người dùng hơn bất cứ ngôn ngữ nào, đơn giản chỉ vì người Hoa đông nhất mà thôi. Hầu hết các nước còn lại đều rất ít dùng tiếng Hán. Tuy là một trong 6 ngôn ngữ làm việc của Liên Hợp Quốc nhưng tỷ lệ sử dụng Hán ngữ chỉ đạt dưới 1%, trong lúc tỷ lệ dùng tiếng Anh là 80%, tiếng Pháp – 15%, tiếng Tây Ban Nha – 4%.
Những năm qua, kinh tế TQ tăng trưởng mạnh, người TQ đi du lịch ngày một nhiều, vì thế một số sân bay, điểm du lịch, khách sạn, đường xá ở nước ngoài bắt đầu dùng Hán ngữ để thông báo hoặc quảng cáo. Các biển báo được viết bằng tiếng bản xứ ở dòng trên cùng, tiếng Anh ở dòng thứ 2, chữ Hán ở dòng cuối. Dòng chữ Hán là để người Hoa đọc, còn dòng tiếng Anh là để phục vụ người tất cả các nước. Người bản xứ chẳng vì có thêm các dòng chữ Hán đó mà biết Hán ngữ.
Người Hoa rất phấn khởi thấy thứ chữ viết khối vuông độc đáo của họ nay đã được nước ngoài sử dụng tại các nơi công cộng. Dân TQ bắt đầu nhen nhóm hy vọng thực hiện giấc mơ toàn cầu hoá Hán ngữ, tuy rằng họ biết đây là một ước mơ rất khó thực hiện.
Từ lâu TQ đã lặng lẽ thực thi chiến lược đưa Hán ngữ tiến đến trở thành ngôn ngữ thế giới.
Năm 1962 Bộ Giáo dục TQ thành lập trường Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh chuyên dạy người nước ngoài học Hán ngữ và văn hoá Trung Hoa, nhằm đào tạo những người “Biết TQ, thân thiện với TQ”. Ngày mới thành lập, cả trường chỉ có 11 học sinh nước ngoài (đều là người châu Phi), hiện nay có hơn 10 nghìn học sinh đến từ hơn 130 nước, được gọi là “Liên Hợp Quốc thu nhỏ”, trong đó số học sinh nước ngoài nhiều hơn số học sinh TQ. Các điều kiện sinh hoạt và học tập ở đây tốt hơn nhiều trường khác, mấy năm nay tỷ lệ tốt nghiệp đều đạt 98%.
GS Lý Vũ Minh nguyên Bí thư Đảng uỷ ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh nói trường ông có vai trò truyền bá “Tư tưởng Trung Quốc”. Môn học chính ở đây là khoa học xã hội-nhân văn, chủ yếu học Hán ngữ và văn hoá Trung Hoa. Nhà trường đưa ra chủ trương “đào tạo công dân thế giới có con mắt quốc tế”. Hiện nay trường đang triển khai đào tạo người tài trong 5 ngành học, 23 chuyên ngành, dần dần hoàn thiện mô hình đào tạo “chuyên ngành + ngoại ngữ”, “ngoại ngữ + chuyên ngành”, “ngữ chủng nhỏ + Anh ngữ”.
Lý Vũ Minh nói thế giới chỉ có một ngôn ngữ thông dụng là chưa đủ, cần có các ngôn ngữ khác đến từ những bối cảnh văn hoá đa dạng. Theo ông, từ vị trí của Hán ngữ trong thể hiện ngôn ngữ tại nhiều nước, có thể thấy Hán ngữ đang trở thành ngôn ngữ thông dụng thứ hai trên thế giới.
Dựa vào vai trò tác dụng của các ngoại ngữ, Lý Vũ Minh chia làm 6 loại ngoại ngữ:
1- Ngoại ngữ đối ngoại: ngôn ngữ chính thức của bất kỳ nước nào cũng cần học để giao thiệp với nước đó hoặc đểnghiên cứu học thuật.
2- Ngoại ngữ lĩnh vực: một nước nào đó có lĩnh vực gì nổi bật thì những người liên quan lĩnh vực đó nên học ngôn ngữ nước này. Ví dụ muốn học thanh nhạc thì phải học tiếng Ý, muốn tìm hiểu Trung Y thì phải học chữ Hán.
3- Ngoại ngữ phiếm vực (Pan-domain foreign language): một nước đang phát triển nhanh về nhiều mặt thì ngôn ngữ của họ sẽ có nhiều người nước ngoài tìm học; đa số người học là người lớn, vì thế còn gọi là “Ngoại ngữ người lớn”.
4- Ngoại ngữ giáo dục cơ sở: là ngôn ngữ của những nước mà trình độ phát triển của họ có lợi cho nước mình, thì phải đưa việc học các ngoại ngữ đó vào chương trình giáo dục cơ sở. TQ hiện có 6 Ngoại ngữ giáo dục cơ sở: Anh, Nhật, Nga, Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
5- Ngoại ngữ quan trọng: là ngôn ngữ của quốc gia hàng đầu thế giới về quốc lực tổng hợp, được nhiều nước khác coi là Ngoại ngữ quan trọng, thậm chí là ngoại ngữ thứ nhất.
6- Ngôn ngữ thứ nhất: ngôn ngữ của một quốc gia đứng đầu thế giới lâu dài về nhiều mặt hoặc một mặt thì thường được một số người nước ngoài coi là ngôn ngữ thứ nhất của trẻ em. Sự lựa chọn này thường có nguồn gốc lịch sử.
Theo ông Lý, do TQ tiến nhanh trên nhiều mặt cho nên từ đầu thế kỷ 21 ngày càng có nhiều người học Hán ngữ, có thể nói Hán ngữ đã trở thành “Ngoại ngữ phiếm vực”. Hiện nay hàng năm có chừng nửa triệu người đến TQ học tập. Năm 2017 đã có hơn 170 nước tổ chức dạy Hán ngữ.
Ngày càng có nhiều quốc gia đưa Hán ngữ vào chương trình giáo dục bậc cơ sở. Năm 1955 Hàn Quốc đi đầu xu hướng này. Năm 2007 tăng lên 7 nước, năm 2010 – 17, năm 2014 – 31 nước, 2017 – 67 nước, 2019 – 70 nước. Có thể coi đây là bước đầu tiên Hán ngữ tiến lên con đường trở thành ngôn ngữ thứ hai thế giới. Hiển nhiên, chỉ có đưa Hán ngữ vào chương trình giáo dục cơ sở thì nó mới có thể trở thành ngôn ngữ được thế giới thường xuyên dùng.
Từ đầu thế kỷ 21, TQ ra sức đẩy mạnh dạy Hán ngữ ra nước ngoài. Năm 2004 Đảng Cộng sản TQ cử một Uỷ viên Bộ Chính trị tổ chức hệ thống dạy Hán ngữ miễn phí trên quy mô toàn cầu. Đó là hệ thống Học viện Khổng Tử (HVKT, Confucius Institute) thành lập tháng 11/2004, với việc mở HVKT đầu tiên tại Seoul. Tính đến 12/2018 đã mở được 548 Học viện và 1193 Lớp học Khổng Tử tại 154 quốc gia và vùng, hiện có 2,1 triệu học viên và hơn 46 nghìn giáo viên. TQ đã đầu tư rất nhiều công của vào hệ thống này.
Đầu tiên hệ thống HVKT do Văn phòng Tiểu tổ lãnh đạo việc dạy Hán ngữ đối ngoại nhà nước (Hanban) phụ trách, đứng đầu là một uỷ viên Bộ Chính trị ĐCSTQ, thành phần gồm 12 cơ quan nhà nước, từ Bộ Giáo dục cho đến Uỷ ban Cải cách và phát triển TQ. Để giảm nhẹ vai trò của Nhà nước, từ 7/2020 hệ thống HVKT chuyển sang do “Quỹ Giáo dục Trung văn quốc tế TQ (China International Foundation for Chinese Language Education)” phụ trách. Quỹ này gồm 27 đơn vị, trong đó có 17 trường đại học và một số công ty liên quan.
Theo số liệu của TQ, số người nước ngoài học Hán ngữ đã tăng từ 100 triệu năm 2010 lên 150 triệu người năm 2013. Ba châu Âu, Mỹ và Á mở được nhiều HVKT hơn cả. Tại châu Á, nhiều nhất là Hàn Quốc, Nhật và Thái Lan, lần lượt có 19, 13 và 12 HVKT (Việt Nam có 1).
Tuy vậy, việc phát triển và duy trì hệ thống HVKT cũng gặp một số trở ngại. Một số HVKT ở Mỹ và châu Âu đã phải đóng cửa. Trong tình hình mối quan hệ Mỹ-TQ căng thẳng hiện nay, hệ thống HVKT khó có thể phát triển như trước.
GS Lý Vũ Minh cho rằng để trở thành sản phẩm chung của toàn thế giới, Hán ngữ cần đạt 3 điều kiện: – Tải được tri thức văn hoá, KHKT tiên tiến của loài người; – Từ ngữ phong phú và chuẩn hoá cao; – Có triết lý giáo dục tiên tiến về Hán ngữ, có phương pháp giáo dục tiên tiến.
Do hàm lượng KHKT của văn bản Hán ngữ quá thấp nên hiện nay Hán ngữ ít được dùng trong các hệ thống văn bản trích dẫn trên thế giới. Như trong Chỉ số trích dẫn về khoa học tự nhiên SCI, tỷ lệ dùng Hán ngữ chỉ bằng 0,28% (Anh ngữ: 98,05%). Xét về tỷ lệ sử dụng trong Chỉ số trích dẫn về khoa học xã hội SSCI, Hán ngữ xếp thứ 22 (Anh ngữ xếp thứ nhất với 96,2%); trong Chỉ số trích dẫn về ngành Nghệ thuật và Nhân văn A&HCI, Hán ngữ xếp thứ 10 trong khi Anh ngữ xếp thứ nhất với tỷ lệ 75,3%.
GS Lý nói: Để trở thành ngôn ngữ thứ hai thế giới, Hán ngữ cần làm được chức năng giúp loài người khám phá thế giới, trình bày thế giới và thích ứng với thế giới. Như đã nói, trong SCI, tiếng Anh chiếm tỷ lệ 98,05%, trong đó tỷ lệ đóng góp của học giả Mỹ chiếm 28%, cao nhất; thứ nhì là đóng góp của học giả TQ, chiếm 17%. Tuy vậy giới học giả TQ lại chưa có đóng góp tương xứng trong việc cung cấp tri thức quốc tế cho Hán ngữ, khiến cho các văn bản Hán ngữ chiếm tỷ lệ quá thấp trong SCI.
Tháng 1/2018, TQ công bố Sách Xanh về phát triển ấn phẩm khoa học kỹ thuật Trung Quốc định kỳ, thống kê tình hình vào/ra luận văn SCI của 14 nước viết nhiều luận văn nhất thế giới, phát hiện chỉ có Hà Lan, Anh, Mỹ thuộc loại “luận văn chảy vào”, còn lại 11 nước thuộc loại “luận văn chảy ra”, trong đó TQ có luận văn chảy ra nghiêm trọng nhất. Nói cách khác, phần lớn kết quả nghiên cứu khoa học của TQ được viết bằng tiếng Anh, “chảy ra” nước ngoài, cho họ đọc; còn luận văn viết bằng Hán ngữ để người TQ đọc thì lại quá ít. TQ nên khuyến khích các học giả (kể cả học giả nước ngoài) viết bài bằng 2 ngôn ngữ: ngoại ngữ và Hán ngữ. Việc trang mạng tạp chí y học quốc tế The Lancet ngày 26/12/2019 đăng bài của học giả TQ viết bằng Hán ngữ là một tín hiệu đáng mừng.
Hiện nay mới có khoảng 80% người TQ nói Tiếng Phổ thông (Mandarin), nghĩa là Hán ngữ chưa là ngôn ngữ chung của toàn TQ, như vậy sẽ rất khó trở thành ngôn ngữ chung của toàn thế giới. Chữ Hán còn khó phổ cập hơn, vì nó là chữ biểu ý (ideograph), có đặc điểm khó học, khó viết, khó nhớ, khó dùng đối với người dân hầu hết các nước đã quen dùng chữ biểu âm (phonograph).
Thực tế cho thấy phong trào cải cách chữ Hán tiến hành rầm rộ trong gần trăm năm tại TQ kể từ cuối thế kỷ 19 cuối cùng chỉ thực hiện được ba mục tiêu là phổ cập Tiếng Phổ thông, đơn giản hoá (bớt nét) một số chữ Hán và dùng chữ cái Latin làm ra phương án phiên âm (pinyin) chữ Hán. Phương án này là cầu nối chữ Hán với tiếng Hán, đã tạo thuận tiện lớn cho việc học và dùng chữ Hán, rất thích hợp thời đại máy tính và điện thoại thông minh. Nhưng mục tiêu cuối cùng — Latin hoá chữ Hán nhằm hoà nhập chữ Hán với chữ viết của hầu hết các nước trên toàn cầu — đã không thể nào đạt được. Từ 1986 TQ đã từ bỏ mục tiêu này (nhà ngôn ngữ Châu Hữu Quang nói cần 500 năm để thực hiện mục tiêu đó).
Theo thiển ý của chúng tôi, chừng nào Hán ngữ còn là ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic) và nghèo âm tiết như hiện nay thì còn chưa thể thay chữ Hán bằng loại chữ viết biểu âm Latin hoá, vì thế chữ viết của người TQ sẽ khó phổ cập được ở nước ngoài, và do đó mong muốn đưa Hán ngữ trở thành ngôn ngữ chung số hai toàn cầu sẽ khó thực hiện được.