Nhiều quốc gia châu Á đang lún sâu hơn vào “bẫy nợ”, thế chấp quyền tự chủ về chính sách đối ngoại, bán các vị trí chiến lược quan trọng cho Trung Quốc.
Lào đang phải vật lộn trả các khoản vay từ Trung Quốc, giao cho Trung Quốc quyền kiểm soát phần lớn hệ thống lưới điện quốc gia.
Trên Nikkei, ông Brahma Chellaney, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm nghiên cứu chính sách Ấn Độ, có bài phân tích, nhận định về chính sách “bẫy nợ” của Trung Quốc. Theo Brahma Chellaney, chính sách ngoại giao Trung Quốc đang áp dụng với nhiều nước dưới “mác” sáng kiến “Vành đai, Con đường” hàm chứa mưu đồ, tham vọng bành trướng của Bắc Kinh.
Các nước vật lộn trả nợ
Lào là nạn nhân mới nhất của chính sách đối ngoại chứa đầy tham vọng bành trướng của Trung Quốc. Viêng Chăn đang phải vật lộn để trả các khoản vay từ Bắc Kinh, bao gồm cả việc phải “ngậm ngùi” giao cho Trung Quốc quyền kiểm soát phần lớn hệ thống lưới điện quốc gia. Điều này xảy ra khi khoản nợ của công ty điện lực của Lào đã lên tới 26% tổng sản phẩm quốc nội.
Lào có tham vọng trở thành cường quốc về điện lực ở khu vực Đông Nam Á. Do đó, nước này sẵn sàng đầu tư vào phát triển thủy điện, hướng đến xuất khẩu điện. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Lào đồng ý giao việc khai thác trữ lượng thủy điện dồi dào của nước này cho các công ty Trung Quốc.
Tuy nhiên, Bắc Kinh hiện đã kiểm soát lưới điện của Lào và nói rộng hơn là nguồn nước của nước này. Điều này tác động nghiêm trọng đến sự an toàn của môi trường và sự phát triển bền vững ở Lào. Trung Quốc xây dựng đập lớn ở thượng nguồn sông Mekong khiến mực nước sông cạn kiệt và hạn hán thường xuyên tái diễn ở các vùng hạ lưu.
Trong khi đó, Sri Lanka và Pakistan rơi vào hoàn cảnh “bất đắc dĩ”, phải vay các khoản nợ mới từ Trung Quốc để trả các khoản vay cũ. Điều đó cho thấy vòng luẩn quẩn mà các quốc gia này bị mắc kẹt vào “bẫy nợ” của Trung Quốc. Cả hai nước trên đều bị buộc nhượng quyền tài sản chiến lược cho Bắc Kinh.
Cách đây chưa đầy 3 năm, Sri Lanka ký hợp đồng cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota – nơi có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Ấn Độ Dương, và hơn 6.000 ha đất xung quanh cảng biển này trong vòng 99 năm. Việc Sri Lanka giao cảng Hambantota cho Bắc Kinh được ví như một người nông dân mắc khoản nợ lớn, phải trao con gái của mình cho tên chủ nợ tàn nhẫn để gán nợ.
Còn Pakistan đã trao cho Trung Quốc độc quyền quản lý, miễn thuế điều hành cảng Gwadar trong 40 năm. Bắc Kinh dự kiến sẽ bỏ túi 91% doanh thu từ cảng biển này. Bên cạnh đó, Trung Quốc lên kế hoạch xây dựng, biến Gwadar trở thành cảng biển đóng vai trò chiến lược, tiền đồn cho hải quân của nước này như Djibouti – quốc gia có cảng biển quan trọng ở châu Phi, đang dính vào ‘bẫy nợ” của Trung Quốc.
Tương tự Sri Lanka và Pakistan, Tajikistan có nhiều khoản vay Trung Quốc từ năm 2006. Do đó, nước này phải nhượng 1.158 km2 vùng núi Pamir cho chủ nợ và cấp cho các công ty Trung Quốc quyền khai thác vàng, bạc, quặng, khoáng sản. Gần đây, Tajikistan đã bắt đầu “ngấm đòn”, đề đạt các yêu cầu giảm nợ đến Bắc Kinh.
Một quốc gia khác cũng đang rơi vào “bẫy nợ” của Trung Quốc là Kyrgyzstan. Tháng trước, nước này đã tìm kiếm sự giải thoát từ Bắc Kinh trong bối cảnh Kyrgyzstan đối mặt với nguy cơ rơi vào hỗn loạn chính trị.
Ở châu Phi, nhiều nước muốn đình chỉ trả nợ từ các khoản vay Bắc Kinh trước tác động, ảnh hưởng do đại dịch COVID-19 đem lại. Danh sách các nước này có Angola, Cameroon, Congo, Ethiopia, Kenya, Mozambique và Zambia.
Mưu đồ “nhan hiểm” của Trung Quốc
Tuần này,Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo có chuyên công du đến châu Á, trong nỗ lực lôi kéo các nước về phía mình nhằm kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vưc.
Trong bối cảnh lo ngại về việc Sri Lanka có thể bị lệ thuộc vào Trung Quốc, ông Pompeo sẽ hối thúc nhà cầm quyền nước này đồng ý về Thỏa thuận tình trạng các lực lượng (SOFA) giữa Mỹ và Sri Lanka và cam kết về khoản viện trợ trị giá 480 triệu USD, kéo dài 5 năm.
Quyết định của Sri Lanka gần đây trong việc lựa chọn chủ nợ là Trung Quốc thay vì Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đặt ra một câu hỏi lớn hơn: Điều gì khiến một số quốc gia lún sâu hơn vào “bẫy nợ” của Trung Quốc, bất chấp rủi ro khi thế chấp quyền tự chủ về chính sách đối ngoại cho Bắc Kinh?
Để trả lời câu hỏi trên, hãy so sánh các điều kiện khi vay nợ của Trung Quốc và vay từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). So với Trung Quốc, IMF thường có các điều kiện vay và có sự giám sát chặt chẽ hơn. Trung Quốc không đánh giá mức độ tín nhiệm của quốc gia đi vay, còn IMF sẽ không cho vay một khi xem xét, cho rằng các khoản vay có thể đẩy nước đó vào cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng.
Trên thực tế, Trung Quốc sẵn lòng cho các quốc gia vay bởi điều này mang lại nhiều lợi ích cho Bắc Kinh. Mong muốn của Trung Quốc là chứng kiến các “con nợ” rơi vào cảnh “lao đao”, đối mặt với khủng hoảng nợ nần.
Để thực hiện chiến lược “bẫy nợ”, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các đối tác trên lĩnh vực kinh tế, từ đó dần kiểm soát, gây ảnh hưởng cả về kinh tế và chính trị lên các nước này. Một khi nước đi vay càng rơi vào khủng hoảng thì mức lãi suất mà nước đó phải trả cho các khoản vay của Trung Quốc càng cao.
Trung Quốc có kinh nghiệm trong việc khai thác lỗ hổng của các quốc gia nhỏ – có vị trí chiến lược, và có nhu cầu vay lớn. Maldives là ví dụ điển hình, tại đây, Bắc Kinh đang từng bước biến các khoản tín dụng lớn thành ảnh hưởng chính trị, trong đó có cả việc mua lại một vài hòn đảo nhỏ ở quần đảo Ấn Độ Dương với giá rẻ.
Đến nay, Maldives đã dần thoát khỏi “bẫy nợ” của Trung Quốc với sự hỗ trợ từ Ấn Độ. Sau bầu cử ở Maldives cách đây 2 năm, New Delhi hỗ trợ tích cực để nước này thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc bằng việc tung ra nhiều khoản ngân sách hào phóng.
Trước mắt, chiến lược dùng “bẫy nợ” để từng bước tác động về chính sách đối với các nước nhỏ, khó khăn về kinh tế của Trung Quốc về cơ bản đã đạt được những mục tiêu nhất định. Tuy nhiên, sự phản kháng ngày càng rộng rãi của các nước trước sự lộng hành của Trung Quốc cũng như nạn tham nhũng từ các giới chức nước này và sự thiếu chắc chắn trong nhiều dự án “Vành đai, Con đường” đang khiến cho mục tiêu lâu dài của Bắc Kinh ngày càng xa rời thực tế.
Tham vọng bành trướng của Trung Quốc đã đạt đến mức đỉnh điểm trong năm nay. Sự mất lòng tin của dư luận và cộng đồng quốc tế đối với Bắc Kinh ngày càng gia tăng, trong đó có cả các đối tác của Trung Quốc.
Thực tế, nhiều dự án được triển khai dưới cái “mác” sáng kiến “Vành đai, Con đường” của Trung Quốc vẫn dậm chân tại chỗ khi không giải ngân được nguồn vốn, điều này khiến cho số lượng các dự án mới ngày càng giảm.
Nhìn chung, Trung Quốc có khả năng sẽ phải trả giá đắt cho chính sách ngoại giao “bẫy nợ”, ngay cả khi các quốc gia mà Bắc Kinh “gài bẫy” đang phải gánh chịu sai lầm trong chính sách đối ngoại với Trung Quốc.
Với những gì đã xảy ra, các nước dần hiểu được mưu đồ, tham vọng bành trướng, bá quyền về lãnh thổ, gia tăng ảnh hưởng về chính trị của Bắc Kinh trong sáng kiến “Vành đai, Con đường” của nước này. Do đó, các nước ngày càng cảnh giác trước các thủ đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh mưu đồ lợi dụng sự lệ thuộc của các nước vào dòng tiền của nước này, từ đó chi phối, tác động về mặt chính sách.