Ngày càng có nhiều người Mỹ cho rằng Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về đại dịch COVID-19 và bồi thường cho những thiệt hại mà COVID-19 gây ra cho Mỹ và thế giới. Tuy nhiên, các chuyên gia nói yêu cầu đó của người Mỹ rất khó đạt được.
Trang tin Đa Chiều (Dwnews) ngày 22/11 đưa tin, theo trang web Rasmussen Reports của cơ quan thăm dò dư luận Mỹ, kết quả cuộc khảo sát do cơ quan này thực hiện trong hai ngày 15 và 16/11 cho thấy, 60% số người Mỹ được hỏi cho rằng Trung Quốc ít nhất cần bồi thường một phần cho những thiệt hại lớn về sinh mạng và tài sản mà đại dịch COVID-19 gây nên.
Rasmussen Reports đã thực hiện một cuộc khảo sát về vấn đề tương tự vào tháng 3. Khi đó có 42% số người được hỏi cho rằng Trung Quốc cần phải bồi thường. Trong cuộc khảo sát vào cuối tháng 7, tỷ lệ những người có quan điểm này đã tăng lên 53%; những người cho rằng Trung Quốc không cần bồi thường chỉ chiếm 24% và 16% khác không này tỏ quan điểm.
Cho đến nay tổng số ca nhiễm COVID-19 được xác nhận ở Mỹ đã vượt quá 12 triệu, với hơn 250 ngàn người tử vong; dịch bệnh cũng gây ra suy thoái kinh tế nhanh chóng ở Mỹ và một số lượng lớn người thất nghiệp.
Ông Doug Bandow, một nhà nghiên cứu lâu năm tại Cato Institute, một tổ chức tư vấn ở Washington, cho rằng sự bùng phát không kiểm soát ở Mỹ là một lý do khiến người dân nước này ngày càng bất bình với Trung Quốc và muốn đòi Trung Quốc bồi thường. Một nguyên nhân khác là Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống tuyên bố đắc cử Joe Biden đều chỉ trích Trung Quốc trong các chiến dịch tranh cử của họ và cáo buộc nhau quá mềm yếu trước Trung Quốc, điều này cũng có thể góp phần khiến người Mỹ gia tăng tâm trạng không hài lòng với Trung Quốc.
Hiện đang có ít nhất bốn vụ kiện tập thể chống lại Trung Quốc ở Mỹ. Đơn kiện của Berman Law Group ở Florida lên Tòa án Liên bang ở quận phía Nam của bang với cáo buộc chính phủ Trung Quốc đã không kiềm chế được dịch bệnh COVID-19 khi mới bắt đầu bùng phát, khiến người dân bang này bị thiệt hại lớn về người và của.
Bang Missouri cũng đã đệ đơn kiện chính phủ Trung Quốc vì những thiệt hại do dịch bệnh gây ra, cáo buộc các quan chức chính phủ Trung Quốc giấu diếm thông tin và bắt giữ những người tố giác. Chính quyền bang này cho biết họ ước tính thiệt hại mà các doanh nghiệp và cư dân trong bang phải gánh chịu do dịch bệnh có thể lên tới hàng chục tỷ USD.
Trước việc người Mỹ lên tiếng yêu cầu Trung Quốc bồi thường vì thiệt hại do dịch bệnh, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngay từ tháng 4 đã tuyên bố bác bỏ và nói, “đối mặt với dịch bệnh, điều mà cộng đồng quốc tế cần làm là sự hợp tác thay vì cáo buộc lẫn nhau và đòi hỏi các yêu sách đòi bồi thường”.
Trước đây, một cuộc thăm dò được công bố vào ngày 21/4 của Trung tâm Nghiên cứu Pew, một cơ quan thăm dò ý kiến, cho thấy khoảng 90% người Mỹ có thái độ tiêu cực đối với Trung Quốc và cho rằng Trung Quốc là một mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của Mỹ.
Bà Ivana Stradner, một chuyên gia luật quốc tế tại tổ chức tư vấn American Corporate Policy Institute, nói rằng Trung Quốc đã không thông báo kịp thời cho thế giới bên ngoài khi dịch bệnh bắt đầu bùng phát và hiện nay hơn một triệu người trên thế giới đã chết vì điều này. Người ta hoàn toàn có thể yêu cầu Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về virus này. Bà nói, virus SARS bùng phát ở Trung Quốc vào năm 2003, và chính phủ Trung Quốc chưa phải chịu trách nhiệm về mặt pháp lý và đạo đức về việc này.
Bà nói: “Nhiều người cho rằng đã đến lúc họ (Trung Quốc) phải trả giá cho hành động của mình, vì lo lắng rằng Trung Quốc có thể gây ra những thảm kịch tương tự cho thế giới một lần nữa”.
Bà James Kraska, giáo sư Luật quốc tế tại Trường Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ nói, dù xem xét từ góc độ luật quốc tế hay luật nội địa Mỹ, việc buộc chính phủ Trung Quốc bồi thường đều phải đối mặt với một số trở ngại pháp lý khó có thể vượt qua được.
Bà nói: “Về luật pháp quốc tế, Trung Quốc là một quốc gia có chủ quyền và luật pháp Hoa Kỳ cũng quy định quyền miễn trừ chủ quyền. Chúng ta không thể đệ đơn kiện một quốc gia có chủ quyền, vì vậy những vụ việc này chỉ có thể diễn ra qua loa và không chắc sẽ có kết quả thỏa đáng”.
Nước Mỹ đã thông qua “Đạo luật miễn trừ chủ quyền nước ngoài” vào năm 1976, trong đó quy định các nguyên tắc chung cho phép các quốc gia có chủ quyền và tài sản của họ được hưởng quyền miễn trừ khỏi quyền tài phán của các tòa án của quốc gia khác và trở thành một phần của hệ thống miễn trừ chủ quyền chung của các quốc gia trên thế giới.
Bà Ivana Stradner nói, ngay cả khi vụ án này có thể được vòng qua những trở ngại pháp lý trong một số trường hợp, chính phủ Trung Quốc có khả năng sẽ phớt lờ phán quyết của tòa án, khiến những vụ án này phải đối mặt với vấn đề thực thi. Nhưng bà cũng cho rằng điều này không có nghĩa là những vụ kiện này là vô nghĩa, Mỹ vẫn nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Công lý quốc tế.
Bà nói: “Mỹ có thể yêu cầu Trung Quốc phải chịu trách nhiệm pháp lý về sự cẩu thả của chính phủ họ trước tòa án quốc tế. Mỹ cần lợi dụng những vụ kiện này để cho cộng đồng quốc tế thấy chính phủ Trung Quốc không tuân thủ nghĩa vụ quốc tế, vạch trần các hành vi của Trung Quốc; trong đó có việc điều tra hành vi của Tổ chức Y tế thế giới bảo vệ lợi ích của Trung Quốc trong vấn đề dịch bệnh”.
Công ty Luật Berman tuyên bố trong một tuyên bố liên quan đến việc khởi kiện chính phủ Trung Quốc rằng, Trung Quốc và các quốc gia khác nói chung sẽ được miễn trách nhiệm do nguyên tắc miễn trừ chủ quyền. Tuy nhiên, trong đơn kiện, họ chỉ ra rằng luật này có các điều khoản ngoại lệ về xâm quyền và hành vi thương mại. Các điều khoản ngoại lệ này trao cho tòa án liên bang Hoa Kỳ quyền tài phán đối với trường hợp này. Một luật sư của công ty luật cho biết trong một tuyên bố rằng Trung Quốc có một số lượng lớn tài sản ở Hoa Kỳ, và “có nhiều kênh để xử lý vụ việc này, và việc gây áp lực lên lợi ích thương mại của Trung Quốc ở Hoa Kỳ là một trong số đó.”
Bà James Kraska nói rằng vẫn có khả năng một vụ kiện chống lại một công ty Trung Quốc có thể được thành lập: “Có một khả năng. Đó là nếu có một doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc là một bộ phận của chính phủ Trung Quốc, thì có thể đưa tài sản của doanh nghiệp này vào vụ kiện. Nếu doanh nghiệp này có tài sản ở Mỹ, tài sản của họ có thể được đưa vào vụ kiện”.