Saturday, October 5, 2024
Trang chủBiển nóngNguy cơ TQ sử dụng vũ lực ở Biển Đông

Nguy cơ TQ sử dụng vũ lực ở Biển Đông

Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng nhiều lần gây chiến tranh với các nước láng giềng. Trong lịch sử hiện đại, chỉ trong nửa cuối Thế kỷ 20, Trung Quốc đã gây ra 5 cuộc chiến tranh với các nước láng giềng: năm 1962, Trung Quốc gây đụng độ trên biên giới với Ấn Độ; năm 1969, tranh chấp giữa Trung Quốc với Nga đã nhuốm màu bạo lực; năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa khi đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý; năm 1979 Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam; năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực gây ra cuộc hải chiến đẫm máu ở bãi Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa và đánh chiếm 6 cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa. Ngày nay, Bắc Kinh đang ráo riết chuẩn bị cho một cuộc chiến mới trên biển.

1. Tăng cường sức mạnh quân sự và dọa nạt các nước láng giềng

Nhìn về quá khứ, một số nhà nghiên cứu đặt câu hỏi phải chăng những người lãnh đạo ở Bắc Kinh “yêu thích” chiến tranh? Và liệu họ có lặp lại điều này một lần nữa? Trong một cuộc tranh luận của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS), Tiến sĩ Oriana Mastro, một nhà phân tích thuộc Viện nghiên cứu quốc tế, Đại học Stanford, nói bà tin rằng sẽ sớm xảy ra một cuộc đụng độ. Bà nói: “Dường như Trung Quốc không phải đang chuẩn bị cho hòa bình. Vũ khí của họ không nhằm mục đích phòng thủ. Cho dù họ triển khai sức mạnh với các tàu nổi hay đưa nhiều tàu sân bay vào hoạt động, thì điều chúng ta có thể thấy rõ là nước này đang xây dựng một quân đội có năng lực sử dụng vũ lực để đánh chiếm vùng lãnh thổ mà họ cho là của riêng mình. Ban lãnh đạo nước này không hài lòng với nguyên trạng. Tuy nhiên, khi quân đội Trung Quốc ngày càng trở nên hùng mạnh hơn, thì họ càng trở nên thoải mái hơn khi sử dụng các công cụ quân sự để đạt được mục tiêu của mình”.

Dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình xem ra Trung Quốc lại một lần nữa trở nên hiếu chiến hơn. Để thực hiện tham vọng “Giấc mộng Trung Hoa” Tập Cận Bình tập trung tăng cường năng lực quân sự của Trung Quốc; ngân sách quốc phòng của Trung Quốc không ngừng gia tăng: từ năm 2015 đến năm 2019 mỗi năm tăng trên 7%, năm 2019 tăng 7,5%; năm 2020 mặc dù tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh song chi phí quốc phòng vẫn tăng 6,6 và năm 2021 tăng 6,8%. Trong đó, một phần lớn ngân sách quốc phòng được dùng để phát triển lực lượng hải quân như đóng tàu sân bay, tàu ngầm, tàu chiến các loại….
Với sức mạnh quân sự được củng cố, Bắc Kinh gia tăng sức ép quân sự đối với Đài Loan, thường xuyên tổ chức các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn trên biển Hoa Đông và Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc còn thường xuyên gây ra các cuộc đụng độ ở biên giới với Ấn Độ.

Nhiều lãnh đạo cấp cao từ Ngoại trưởng cho đến Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời ông Tập Cận Bình đã từng có những tuyên bố hết sức trịch thượng và ngạo mạn, dọa nạt các nước láng giềng. Tại Hội nghị cấp Bộ trưởng ASEAN – Trung Quốc ở Hà Nội năm 2010, ông Dương Khiết Trì (khi đó là Ngoại trưởng Trung Quốc, hiện là Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Ngoại sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc) đã nói với các đối tác ASEAN một câu thể hiện tư tưởng bá quyền: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, đó là một thực tế”.

Tháng 11/2020, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa phát biểu với giọng điệu gay gắt: “Chúng tôi sẽ không cho phép bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào xâm phạm và chia cắt những vùng lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc”. Vấn đề là ở chỗ, Trung Quốc luôn tự coi các quần đảo và vùng biển của các nước láng giềng ở Biển Đông thuộc “lãnh thổ thiêng liêng” của họ, mặc dù họ hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và các yêu sách của họ đã bị Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông và nhiều nước gửi công hàm lên Liên hợp quốc bác bỏ.

2. Sử dụng bộ máy truyền thông, tạo dư luận trên quốc tế chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh

Các cơ quan truyền thông Trung Quốc đồng loạt phát đi những giọng điệu hiếu chiến, đổ lỗi cho Mỹ là “kẻ xúi giục”. Tháng 9/2020, Thời báo Hoàn cầu – một tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tuyên bố: “Người Trung Quốc không muốn chiến tranh, nhưng chúng tôi có những tranh chấp lãnh thổ với một số quốc gia láng giềng đã bị Mỹ xúi giục đối đầu với Trung Quốc”. Tuy nhiên, các nước láng giềng không nhất trí về quy kết vô lý này của Bắc Kinh.

Thông qua các cơ quan truyền thông, Bắc Kinh gieo rắc trong cộng đồng quốc tế tâm lý Trung Quốc đang bị khiêu khích từ bên ngoài, nhất là Mỹ. Ông Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập tờ Thời báo Hoàn cầu cao giọng đổ lỗi: “Thứ nhất, phía bên kia, chứ không phải Trung Quốc, mới là bên phá vỡ nguyên trạng. Thứ hai, phía bên kia mới là kẻ khiêu khích trong một tình huống phức tạp”. Bằng cách vu cáo đó, Bắc Kinh đang tạo cớ cho việc phát động một cuộc chiến tranh với lỗi thuộc về đối phương.

Một chiến thuật khác là truyền thông Trung Quốc nỗ lực tạo dựng cảm giác “việc đã rồi”. Họ lớn tiếng tuyên bố quyền sở hữu, kiên trì đòi quyền sở hữu, chiếm đóng lãnh thổ tranh chấp, ép buộc các bên không liên quan phải công nhận. Chiến thuật này đang được Bắc Kinh sử dụng triệt để trên vấn đề Biển Đông. Truyền thông Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp ý kiến của cộng đồng quốc tế liên tục lặp đi lặp lại cái gọi là “chủ quyền” hay “các vùng biển của Trung Quốc” ở Biển Đông mà không đưa ra được bất cứ lý lẽ nào.

Một số nhà quan sát cho rằng đối với bên ngoài, rõ ràng bộ máy truyền thông của Bắc Kinh đang chuẩn bị dư luận để biện hộ cho việc tăng cường sức mạnh quân sự và khả năng sẵn sàng sử dụng vũ lực.

3. Sử dụng con bài “chủ nghĩa dân tộc” để kích động tinh thần trong nội bộ

Giống như hầu hết các nhà lãnh đạo trong lịch sử, Chủ tịch Tập Cận Bình xây dựng quyền lực của mình dựa trên niềm tự hào dân tộc. Sau khi giữ vị trí cao nhất, ông Tập Cận Bình đã đề ra mục tiêu phục hưng dân tộc Trung Hoa để tập hợp lực lượng trong nước, loại bỏ các thành phần chống đối.

Lịch sử đã chứng minh hầu hết các cuộc chiến tranh đều nổ ra khi các nhà lãnh đạo tin rằng lực lượng quân sự sẽ tạo ra các nguồn lực, quyền lực, vinh quang và uy tín. Giới lãnh đạo Bắc Kinh đứng đầu là Tập Cận Bình luôn nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng nhất của họ là giành lại quyền kiểm soát đối với những gì họ coi là lãnh thổ của mình. Bắc Kinh đề cao “chủ nghĩa dân tộc” để người dân tin vào giới lãnh đạo, tin vào sự nghiệp phục hưng dân tộc Trung Hoa, sẵn sàng ủng hộ một cuộc chiến tranh nếu giới cầm quyền Bắc Kinh phát động.

Nhằm kích động tinh thần dân tộc, ông Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập tờ Thời báo Hoàn cầu đã từng nói rằng: “Trung Quốc phải là một quốc gia dám chiến đấu…. Trung Quốc có sức mạnh trong tay, có lý lẽ và Trung Quốc không e sợ đứng lên bảo vệ những tài sản quan trọng của mình” và rằng: “Chúng tôi (Trung Quốc) tự tin sẽ giành chiến thắng trong cuộc xung đột với các lực lượng láng giềng có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Tương tự, nếu chiến sự với Mỹ nổ ra gần khu vực ven biển Trung Quốc, chúng tôi (Trung Quốc) cũng có nhiều cơ hội giành chiến thắng”.

4. Bản chất, tính cách của Tập Cận Bình có thể là nhân tố tạo nguy cơ sử dụng vũ lực.

Sinh ra trong một gia đình lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, Tập Cận Bình được rèn luyện qua những môi trường khác nhau từ thời trẻ. Từng là thư ký của ông Cảnh tiêu, Bộ trưởng Quốc phòng và Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Trung Quốc nên Tập Cận Bình được tôi luyện bản lĩnh nhà binh và trở nên quyết đoán như một nhà quân sự độc tài. Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu còn nhận thấy ở Tập một sự “bất nhất”, thường nói một đằng làm một nẻo. Tất cả những tính cách này được Tập Cận Bình thể hiện rõ trên vấn đề Biển Đông.

Dưới thời của Tập Cận Bình, Trung Quốc đã ráo riết triển khai quân sự hóa Biển Đông, từ việc bồi đắp, mở rộng các cấu trúc ở Biển Đông, biến chúng thành các đồn điền quân sự đến việc tăng cường hoạt động của các tàu chiến (gồm tàu sân bay, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu ngầm…) và đẩy mạnh diễn tập quân sự trên Biển Đông. Chính Tập Cận Bình là người trực tiếp chỉ đảo các công việc này.

Nhiều dẫn chứng chỉ ra rằng Tập Cận Bình là con người không giữ chữ tín, “nói một đằng, làm một nẻo” hay nói cách khác là “nói vậy mà không phải vậy. Chẳng hạn như dưới thời Tập Cận Bình, trong vụ việc tranh chấp ở bãi cạn Scarborough năm 2012 Bắc Kinh đã đề xuất Mỹ làm trung gian để cả Trung Quốc và Philippines cùng rút tàu ra khỏi bãi cạn này. Tuy nhiên sau khi nghe lời khuyên của Mỹ, Philippines rút các tàu ra khỏi bãi cạn Scarborough thì Trung Quốc lại không rút tàu mà kiểm soát luôn bãi này cho đến nay; hay năm 2015, Chủ tịch Tập Cận Bình đã cam kết với Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là ông Obama rằng Mỹ “sẽ không quân sự hóa Biển Đông”, song cho đến nay Trung Quốc đã biến các cấu trúc mà họ chiếm đóng ở Biển Đông thành những tiền đồn quân sự với những trang thiết bị, vũ khí hiện đại.

Nhiều chuyên gia quốc tế đã cảnh báo: Hãy đừng tin vào những gì ông ta (Tập Cận Bình) nói mà hãy nhìn vào hành động của ông ta.

5. Những tín hiệu mới nhất thể hiện Bắc Kinh sẵn sàng cho chiến tranh ở Biển Đông.

Những động thái dồn dập của Trung Quốc ở Biển Đông từ đầu năm đến nay càng làm dấy lên lo ngại về nguy cơ nổ ra xung đột ở Biển Đông.

Ngày 24/3 trong lúc thăm một đơn vị quân đội ở tỉnh Phúc Kiến, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhấn mạnh tăng cường huấn luyện quân sự và sẵn sàng tác chiến nhằm nâng cao các khả năng để hoàn thành “các sứ mệnh và nhiệm vụ”. Tân Hoa xã – cơ quan ngôn luận chính thức của nhà nước Trung Quốc còn nhấn mạnh ông Tập Cận Bình đã ra lệnh tập trung vào việc chuẩn bị chiến tranh, tăng hường huấn luyện trong môi trường thực chiến và hiện đại hóa các lực lượng vũ trang.

Một tháng sau đó, hôm 23/4, ông Tập Cận Bình đã đích thân tới căn cứ Tam Á (Hải Nam) tham dự lễ đưa vào biên chế Hải quân Trung Quốc cùng lúc 3 chiến hạm hiện đại nhất, được coi là “vũ khí trọng yếu của quốc gia” gồm tàu ngầm hạt nhân chiến lược Type 094A Trường Chinh 18 (số 421), tàu khu trục Type 055 cỡ vạn tấn Đại Liên (số 105) và tàu tấn công đổ bộ trực thăng Type 075 Hải Nam (số 31). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hải quân Trung Quốc được biên chế 3 tàu chiến cùng một ngày tại cùng một địa điểm.

Giới quan sát cho rằng, động thái này của Bắc Kinh mang ý nghĩa chính trị rõ rệt. Đặc biệt, việc ông Tập Cận Bình, người được coi là lãnh đạo phái “cứng rắn” ở Trung Quốc, đích thân xuất hiện trao cờ cho các hạm trưởng là nhằm chuyển tới các nước ven Biển Đông thông điệp răn đe “Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực” không chỉ ở eo biển Đài Loan mà cả ở Biển Đông khi cần thiết.

Cùng với đó, Bắc Kinh cùng lúc đưa 2 nhóm tàu sân bay vào Biển Đông. Trong lúc tàu Sơn Đông neo đậu ở cảng Du Lâm, Hải Nam thì tàu sân bay Liêu Ninh lại tiếp tục vào Biển Đông hôm 11/4. Tờ Thời báo Hoàn Cầu hôm 12/4 còn có bài viết với giọng điệu hết sức ngạo mạn rằng việc Bắc Kinh triển khai tàu sân bay đến Biển Đông là “động thái đáp trả nhanh chóng của Bắc Kinh trước hành động của Mỹ”.

Ngay sau khi nhóm tàu tác chiến tàu sân bay Liêu Ninh kết thúc các cuộc diễn tập quân sự trên Biển Đông và rời đi hôm 24/4 thì ngày 28/4 nhóm tàu tác chiến do tàu sân bay thứ 2 mang tên Sơn Đông dẫn đầu lại rời cảng Du lâm tiến ra Biển Đông để tập trận. Các chuyên gia phân tích quân sự cho rằng động thái này nhấn mạnh thực tế rằng hai tàu sân bay mà Trung Quốc đang vận hành tích cực huấn luyện để sẵn sàng chiến đấu.
Cùng với các cuộc diễn tập của 2 nhóm tàu sân bay, quân đội Trung Quốc còn liên tục tiến hành các cuộc tập trận khác ở Biển Đông. Trong vòng chưa đầy 5 tháng kể từ đầu năm 2021, quân đội Trung Quốc đã tiến hành khoảng 17 cuộc tập trận ở Biển Đông, gần bằng số cuộc tập trận của cả năm trước (trong năm 2020, quân đội Trung Quốc tiến hành khoảng 20 cuộc tập trận ở Biển Đông).

Phát biểu và những hoạt động của ông Tập Cận Bình cùng với các hoạt động diễn tập quân sự quy mô lớn, bao gồm bắn đạn thật ở Biển Đông cũng như hoạt động diễu võ dương oai của các tàu sân bay Trung Quốc trên Biển Đông khiến giới quan sát bàn luận sôi nổi và đưa ra những cảnh báo về nguy cơ Bắc Kinh sử dụng vũ lực đang hiện hữu ở Biển Đông.

Lịch sử đã cho thấy nhiều bài học, Bắc Kinh thường tranh thủ những lúc tình hình quốc tế rối ren để phát động những cuộc chiến tranh xâm lấn lãnh thổ, vùng biển. Giữa lúc cả thế giới và khu vực đang phải đương đầu với đại dịch Covid-19, không loại trừ khả năng giới cầm quyền Bắc Kinh lại một lần nữa “đục nước béo cò” để gây ra một cuộc đụng độ quân sự trên Biển Đông. Các nước ven Biển Đông cần hết sức tỉnh táo, tránh tạo cớ để Trung Quốc sử dụng vũ lực ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới