Nhân dịp đánh dấu 5 năm kể từ khi Tòa trọng tài quốc tế ngày 12.7.2016 đưa ra phán quyết bác bỏ bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc đối với Biển Đông, Thanh Niên đã phỏng vấn một số chuyên gia quốc tế để đánh giá về tình hình vùng biển này thời gian qua.
Tàu 739 của lực lượng chấp pháp Việt Nam ngăn cản tàu hải cảnh 33111 của Trung Quốc vi phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam tháng 10.2019
Trả lời phỏng vấn có các chuyên gia: ông Greg Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS, Mỹ); PGS-TS Richard Heydarian, chuyên gia phân tích chính trị và các vấn đề quốc tế của Philippines; TS Swee Lean Collin Koh, chuyên gia quốc phòng thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Singapore.
Bắc Kinh tăng cường quân sự
Ông đánh giá như thế nào về tình hình Biển Đông trong 5 năm qua ?
Ông Greg Poling: Tình hình ở Biển Đông diễn biến xấu hơn đối với các bên tranh chấp ở Đông Nam Á. Từ sau năm 2016, Trung Quốc hoàn thành thêm nhiều cơ sở quân sự ở một số thực thể tại Biển Đông để tăng cường lực lượng và triển khai hàng trăm tàu dân quân ở quần đảo Trường Sa. Những điều đó đang khiến cuộc sống của ngư dân, các nhà khai thác dầu khí và thường dân trên khắp khu vực ngày càng khó khăn hơn.
PGS-TS Richard Heydarian: Hơn 1 năm qua, đại dịch Covid-19 đã khiến nhiều nước ở Đông Nam Á lẫn Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ… bị phân tâm. Trong bối cảnh như vậy, Trung Quốc đã lợi dụng tình hình nhằm củng cố vị thế kiểm soát nhiều hơn về mặt thực địa ở Biển Đông. Trung Quốc tăng cường lực lượng dân quân biển quấy rối Philippines, Việt Nam. Điển hình là vụ nhiều tàu dân binh biển của Trung Quốc hoạt động suốt nhiều tháng tại bãi Ba Đầu. Bắc Kinh đang bao vây, cưỡng ép các nước khác ra khỏi khu vực quần đảo Trường Sa.
TS Swee Lean Collin Koh: Chúng ta chưa thấy xung đột bùng phát ở Biển Đông. Nhưng tình hình đã trở nên căng thẳng hơn – với sự can dự của nhiều bên (đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ) và một loạt các vụ gây sức ép ở một số thực thể tại Biển Đông. Xung đột chưa nổ ra có thể do các bên liên quan nỗ lực giữ cho hành động của họ dưới ngưỡng sử dụng vũ trang và các cuộc đối thoại tiếp tục đang diễn ra, chẳng hạn như các cuộc đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) đang diễn ra – dù đàm phán đã chậm lại kể từ khi Covid-19 bùng phát.
Trung Quốc có nhiều hoạt động gây quan ngại
Suốt 5 năm qua, Trung Quốc liên tục có nhiều hành vi gây quan ngại ở Biển Đông. Giữa năm 2019, Trung Quốc điều động tàu khảo sát Hải Dương 08 cùng lực lượng tàu yểm trợ xâm phạm vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Lực lượng hải cảnh Trung Quốc cũng thường xuyên quấy phá tàu cá của ngư dân Việt Nam. Trong đó, một vụ việc nghiêm trọng đã diễn ra vào ngày 2.4.2020 khi tàu hải cảnh Trung Quốc đã đâm chìm 1 tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi đang hoạt động hợp pháp ở vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Được mệnh danh là “hung thần” trên Biển Đông, lực lượng hải cảnh Trung Quốc đầu năm nay được Quốc hội nước này thông qua luật mới cho phép sử dụng vũ khí nhằm vào tàu nước ngoài ở các vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Điều này gây nên quan ngại nghiêm trọng vì Trung Quốc có thể lợi dụng để tấn công tàu các nước.
Cũng trong 5 năm qua, Bắc Kinh đã quân sự hóa, triển khai nhiều hệ thống do thám, tên lửa đối không (như HQ-9) lẫn đối hải (YJ-12, YJ-62…) đến các thực thể ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng đang bị Bắc Kinh chiếm đóng phi pháp. Trong số này, sau đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa, các bãi đá Xu Bi, Vành Khăn và Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa cũng đã được Trung Quốc hoàn thiện các hạ tầng đường băng, nhà chứa máy bay. Kèm theo đó, Trung Quốc cũng thường xuyên điều các loại máy bay tiêm kích như J-10 và J-11, oanh tạc cơ H-6 đến các đảo và bãi đá vừa nêu.
Bắc Kinh cũng liên tục tổ chức nhiều cuộc tập trận ở Biển Đông trong những năm gần đây.
Ông nhận định thế nào về các động thái của Trung Quốc (ví dụ tăng cường thiết lập vùng xám, quân sự hóa…) ở Biển Đông?
Ông Greg Poling: Trung Quốc thực thi chiến lược vùng xám ở Biển Đông bằng cách điều động lực lượng hải cảnh và dân binh biển gây ra nguy cơ va chạm và đe dọa các tàu của Philippines, Malaysia và VN. Các nước trong khu vực ngày càng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nhà đầu tư sẵn sàng vào dầu khí ngoài khơi vì những rủi ro. Ngư dân Philippines đang bị xua đuổi khỏi ngư trường. Không bao lâu nữa, Biển Đông sẽ quá nguy hiểm cho bất kỳ thường dân nào khác ngoài Trung Quốc hoạt động.
TS Swee Lean Collin Koh: Những năm qua, chúng ta có thể thấy rằng Trung Quốc đã tiến hành củng cố hơn nữa quyền kiểm soát và thống trị thực tế ở Biển Đông. Điển hình là các cuộc nâng cấp liên tục đối với khu vực mà họ kiểm soát – đặc biệt là các tiền đồn đảo nhân tạo, hoặc việc tăng cường khả năng quân sự và tuần duyên nói chung ở khu vực. Và như tôi đã đề cập, Trung Quốc tiếp tục sử dụng các hành vi cưỡng ép đối với các nước Đông Nam Á tại Biển Đông.
Cẩn trọng với COC
Đâu là giải pháp để giảm căng thẳng Biển Đông? Và đâu là các yếu tố cần thiết để các bên đạt được một COC hiệu quả?
Ông Greg Poling: Các giải pháp chỉ có thể thông qua biện pháp ngoại giao. Dù có được thông qua, COC khó giải quyết các căng thẳng. Vì vậy, các bên tranh chấp ở ASEAN nên tiến hành các cuộc thảo luận song song về quản lý nghề cá, dầu khí, hoạt động thực thi pháp luật và các vấn đề quan trọng khác trong tiến trình làm việc giữa ASEAN và Trung Quốc. Bên cạnh đó, các nước ASEAN nên ủng hộ quốc tế hóa các tranh chấp – nêu vấn đề tại LHQ và các diễn đàn khác – để khiến Trung Quốc phải trả giá về mặt ngoại giao khi gây ra các hành vi xấu. Chỉ có sự lên án quốc tế mới khiến Trung Quốc phải tìm kiếm các thỏa hiệp.
PGS-TS Richard Heydarian: Con đường phía trước cho chúng ta là các thành viên ASEAN, đặc biệt là Philippines, Việt Nam, Indonesia cần phối hợp hành động nhiều hơn. Về COC, tôi không kỳ vọng nhiều, vì có thể dẫn đến một nhận thức sai lầm rằng Trung Quốc đang tương tác với các nước láng giềng một cách hòa bình và tôn trọng. Các nước ASEAN trước hết cần có một bộ quy tắc ứng xử riêng.
TS Swee Lean Collin Koh: Có một thực tế là chưa thấy giải pháp cuối cùng nào đủ sức giải quyết các tranh chấp này, cách duy nhất sắp tới là kiểm soát căng thẳng một cách hòa bình. Trong khi duy trì các nỗ lực đối thoại, các bên Đông Nam Á yếu hơn ở Biển Đông vẫn sẽ phải tăng cường năng lực lực lượng hàng hải quốc gia.
Ngoài ra, các kịch bản hiện tại và tương lai dự đoán Biển Đông sẽ khiến việc gắn kết hơn nữa với các quốc gia bên này trở nên quan trọng hơn. Những nỗ lực này kết hợp lại có thể giúp duy trì một phương thức hòa bình và ổn định ở Biển Đông, để không một bên cụ thể nào có thể chiếm ưu thế hoàn toàn.
Bên cạnh các động thái an ninh – chính trị trên, các bên liên quan ở Biển Đông phải tiếp tục nhấn mạnh luật pháp quốc tế và trật tự dựa trên quy tắc – ví dụ như gửi công hàm tới LHQ để phản đối những tuyên bố bành trướng của Bắc Kinh là cách tốt. Đối với các nước Đông Nam Á, điều quan trọng là phải đa dạng hóa các nguồn đầu tư và thị trường xuất khẩu của họ để giảm bớt hoặc giảm thiểu rủi ro do kinh tế Trung Quốc ép buộc.
Mặc dù COC đã được xem là một giải pháp quan trọng trong tương lai, nhưng nếu không có bất kỳ định hướng nào sâu hơn cho cơ chế của COC – đặc biệt là các cơ chế đảm bảo việc tuân thủ và thực thi – thì rất khó để COC có tác động lâu dài ở Biển Đông.