Trung Quốc đã “vỡ mộng” cải thiện mối quan hệ với Mỹ năm qua, vì chính sách của chính quyền Biden không những không bớt “rắn” so với thời Donald Trump, mà còn tăng cường độ.
Trung Quốc đã “vỡ mộng” cải thiện mối quan hệ với Mỹ năm qua, vì chính sách của chính quyền Biden không những không bớt “rắn” so với thời Donald Trump, mà còn tăng cường độ.
Tháng 4/1971, một đoàn gồm 9 tuyển thủ bóng bàn của Mỹ đã đặt chân đến Trung Quốc, ngay giữa thời kỳ căng thẳng nhất của Chiến tranh Lạnh.
Phần còn lại là lịch sử. Sự kiện về sau được gọi là “ngoại giao bóng bàn” này đã dọn đường cho chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của một tổng thống Mỹ vào năm 1972, cũng như đặt nền móng cho việc thiết lập quan hệ bang giao chính thức giữa hai nước vào cuối thập niên đó.
Nửa thế kỷ sau, mối quan hệ này đang ở mức thấp nhất trong nhiều thập niên. Thể thao vẫn là mặt trận ngoại giao nhưng không còn tinh thần thi đấu giao hữu của năm xưa nữa, mà thay vào đó là hiềm khích và căng thẳng. Washington tuyên bố tẩy chay về mặt ngoại giao Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh 2022, với Canada, Anh, Australia và Nhật Bản “nối gót”.
Song thể thao chỉ là một mặt trận nhỏ trong cuộc chiến đa mặt trận, đa chiều kích giữa hai cường quốc hàng đầu thế giới hiện nay. Mỹ và Trung Quốc mâu thuẫn gay gắt về cách thức quản lý xã hội và kinh tế, hay tính ưu việt của thể chế. Hai nước chạy đua tranh giành ảnh hưởng bên ngoài lãnh thổ, cạnh tranh về công nghệ, cũng như tìm mọi cách để giành lợi thế quân sự trên đất liền, ngoài vũ trụ và trên không gian mạng. Họ đồng thời cũng là đối tác thương mại và kinh doanh lớn của nhau, khiến cho cuộc cạnh tranh trở nên phức tạp hơn so với thời Chiến tranh Lạnh, cách so sánh đã được nhắc đến nhiều hơn thời gian gần đây.
Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến giữa Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 11 đã không tạo ra đột phá nào đáng kể để cải thiện quan hệ. Thay vào đó, cả hai bên nhắc lại các quan điểm đã mâu thuẫn từ lâu, chỉ đồng ý về sự cần thiết phải ngăn chặn cạnh tranh leo thang thành xung đột diện rộng.
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nói việc quản lý mối quan hệ với Bắc Kinh là “bài kiểm tra địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ 21”, khuếch đại tiếng vọng từ những dự báo rằng Trung Quốc sẽ sớm soán ngôi số 1 thế giới của Mỹ. Tại Trung Nam Hải, ông Tập và các quan chức ngày càng nói nhiều hơn về những dấu hiệu mà họ cho là “Phương Đông đang trỗi dậy còn Phương Tây đang thụt lùi”.
Nhìn lại một năm qua, theo các chuyên gia, quan hệ Mỹ – Trung đang đi vào trạng thái “cân bằng thiếu ổn định”, với những nỗ lực can dự để mâu thuẫn không vượt khỏi tầm kiểm soát. Và với những chuyển động chính trị nội bộ quan trọng trong năm tới ở cả hai nước, không bên nào muốn căng thẳng leo thang quá mức hiện tại, song cũng không bên nào có động lực làm tan băng.
“Không bên nào hài lòng với mối quan hệ này, nhưng không bên nào muốn thấy căng thẳng leo thang nghiêm trọng vượt quá mức hiện tại”, Ryan Hass, học giả cao cấp với nhiều năm nghiên cứu về Đông Á tại Viện Brookings ở Washington, DC (Mỹ), nói với Dân trí.
Tổng thống Biden bước vào nhiệm kỳ với những di sản không dễ giải quyết trong quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc, nhưng cũng là những vấn đề có thể định hình cục diện thế giới nhiều năm tới. Trong khi đó, Trung Quốc dường như đã kỳ vọng rằng quan hệ song phương có thể được cải thiện.
Từ thương mại, công nghệ, đại dịch Covid-19, cho đến các vấn đề Đài Loan, Hong Kong, Tân Cương, cũng như vị thế và ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược sâu rộng giữa hai cường quốc diễn ra ngày càng phức tạp.
Trả lời Dân trí, Ian Johnson, học giả cao cấp về nghiên cứu Trung Quốc tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) của Mỹ, đồng thời là nhà báo từng đoạt giải Pulitzer kiêm tác giả nhiều cuốn sách về Trung Quốc, cho rằng Bắc Kinh đã thất vọng vì không thể cải thiện quan hệ với Mỹ như mong muốn.
Căng thẳng thương mại giữa hai bên, bắt đầu dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump, vẫn tiếp diễn với cuộc chiến thuế quan chưa thấy dấu hiệu hạ nhiệt. Chính quyền Biden tiếp tục phản đối các chính sách kinh tế của Trung Quốc, bao gồm sự hậu thuẫn của Bắc Kinh trong nhiều lĩnh vực như thép, pin mặt trời, chip máy tính và các ngành công nghiệp nội địa khác.
“Những chính sách này đã củng cố động lực ‘tổng bằng không’ trong nền kinh tế thế giới”, bà Katherine Tai, đại diện thương mại Mỹ, từng nói vào tháng 10, theo New York Times. Bà cũng cho rằng tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng của Trung Quốc gây tổn hại đến người lao động và nền kinh tế Mỹ.
Cuộc chiến thuế quan với những màn trả đũa qua lại, bắt đầu vào năm 2018, cho thấy hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đã liên kết chặt chẽ với nhau như thế nào – và sẽ dễ bị tổn thương ra sao nếu một trong hai bên tiến xa hơn nhằm “tách rời” khỏi nhau.
Theo thỏa thuận “Giai đoạn 1” về thương mại giữa hai nước, Trung Quốc đồng ý mua ít nhất 200 tỷ USD giá trị hàng hóa Mỹ trong giai đoạn 2020-2021. Tuy nhiên, theo thống kê của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, tính đến tháng 10, Trung Quốc mới chỉ đạt 62% chỉ tiêu. Thỏa thuận sẽ kết thúc vào tháng 12 này.
Trong bối cảnh đại dịch và chiến tranh thương mại với Mỹ, ông Tập đề ra chiến lược kinh tế mà ông gọi là “tuần hoàn kép”, ưu tiên nhu cầu nội địa và sản xuất trong nước, thay vì các chính sách hướng đến xuất khẩu vốn đã giúp Trung Quốc trở nên giàu có hơn từ khi cải cách mở cửa. Việc này góp phần đưa đến những đánh giá rằng Trung Quốc đang có xu hướng “quay vào bên trong” hay “quay lưng với thế giới”.
Các quan chức Bắc Kinh nói chiến lược “tuần hoàn kép” không có nghĩa là Trung Quốc đóng cửa đối với đầu tư và hàng hóa nước ngoài. Song bầu không khí chủ nghĩa dân tộc về kinh tế đã kích thích sự quan tâm và đầu tư mới vào các thương hiệu nội địa. Người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng không khoan nhượng đối với các công ty nước ngoài không nghe theo lập trường của Bắc Kinh về Hong Kong, Tây Tạng và các vấn đề nổi cộm khác.
Do đó, các hãng phim ở Hollywood đã ngừng sản xuất phim có nhân vật phản diện là người Trung Quốc. Một trong những bộ phim bom tấn gần đây nhất của Trung Quốc, do chính phủ tài trợ, ca ngợi chiến thắng của Trung Quốc trước người Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên.
Cho dù thế nào, hai nước vẫn đang phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau về thương mại và đầu tư, bất chấp những lời kêu gọi về việc “tách rời” kinh tế từ thời ông Trump. Năm 2020, Trung Quốc là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất, thị trường xuất khẩu lớn thứ ba và là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Mỹ.
Một báo của của Viện nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Hiện đại Trung Quốc, trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết trong 7 tháng đầu năm 2021, thương mại hàng hóa giữa hai nước tăng 40% so với cùng kỳ, theo số liệu Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Trong khi đó, theo kết quả “Khảo sát Thành viên 2021” do Hội đồng Kinh doanh Mỹ – Trung công bố, 95% số công ty Mỹ có hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc được khảo sát đã báo cáo lợi nhuận và hơn 40% trong số các công ty này có kế hoạch đầu tư thêm vào Trung Quốc trong năm tới.
Cuộc chiến thương mại đã lan tỏa sức nóng sang lĩnh vực công nghệ cao, nơi hai bên đều muốn là người dẫn đầu. Trong số khoảng 4.500 công ty liên quan đến trí tuệ nhân tạo trên thế giới, khoảng một nửa hoạt động ở Mỹ và một phần ba hoạt động ở Trung Quốc. Những gã khổng lồ Internet của Thung lũng Silicon hầu hết đều đã rời khỏi Trung Quốc nhiều năm. Công ty mới nhất ra đi là LinkedIn của Microsoft, từ bỏ thị trường Trung Quốc vào tháng 10.
Nhiều công ty công nghệ khác của Mỹ khác vẫn kinh doanh ở Trung Quốc, bao gồm Apple, Tesla, Qualcomm và Intel. Điều này làm dấy lên nghi ngờ ở Washington rằng các gián điệp Trung Quốc đang đánh cắp công nghệ và bí mật của các công ty này; rằng sản phẩm họ sản xuất ở Trung Quốc dễ trở thành nạn nhân của các vụ tấn công mạng; rằng họ đang từ bỏ các giá trị tự nhận khi chơi theo quy tắc của Bắc Kinh.
Nói với Dân trí, tiến sĩ Victor Shih, chuyên gia về chính trị và kinh tế Trung Quốc tại Đại học California (UC) San Diego (Mỹ), chính quyền Biden đặc biệt quan tâm với cuộc cạnh tranh công nghệ với Trung Quốc.
Theo một bài viết của học giả Ryan Hass đăng trên website Viện Brookings, trong số khoảng 4.500 công ty liên quan đến trí tuệ nhân tạo trên thế giới, khoảng một nửa hoạt động ở Mỹ và một phần ba hoạt động ở Trung Quốc. Một nghiên cứu cho thấy Mỹ và Trung Quốc có thể thu về đến 70% trong tổng số 15,7 nghìn tỷ USD doanh thu mà AI dự kiến bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu đến năm 2030.
Song cuộc cạnh tranh này là một vòng luẩn quẩn. Việc chính quyền Trump nhắm vào Huawei, tập đoàn công nghệ viễn thông hàng đầu Trung Quốc, đã khiến Bắc Kinh ý thức hơn về việc Mỹ có thể dễ dàng sử dụng ảnh hưởng kinh tế của mình để hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến của Trung Quốc.
“Đổi mới công nghệ đã trở thành chiến trường chính trong trò chơi chiến lược toàn cầu”, ông Tập phát biểu tại một hội nghị vào tháng 5. Trong những năm gần đây, ông đã nhiều lần nói rằng Trung Quốc cần có khả năng “tự lực cánh sinh” về công nghệ, kỹ thuật cao.
Tương tự, Trung Quốc cũng lo ngại về nguy cơ rò rỉ thông tin và tác động đến an ninh kinh tế nếu các công ty công nghệ nước này hoạt động ở thị trường Mỹ. Và cùng với sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc trong nước và chiến lược “tuần hoàn kép”, quyết định của các công ty Trung Quốc không chỉ thuần túy là lợi ích kinh doanh mà còn chứa đựng hàm ý chính trị. Việc Didi Chuxing, nền tảng gọi xe di động lớn nhất Trung Quốc, mới đây đã hủy kế hoạch niêm yết ở New York để quay về chuẩn bị niêm yết ở Hong Kong, là một ví dụ.
Trong khi đó, quyết tâm của Trung Quốc khiến các quan chức Mỹ ngày càng cảnh giác hơn nữa trong việc ngăn chặn những bí quyết nhạy cảm của Mỹ rơi vào tay Trung Quốc. Họ cho một loạt công ty công nghệ Trung Quốc vào danh sách đen. Họ xem xét kỹ lưỡng hơn các khoản đầu tư vào Trung Quốc. Các nhà khoa học gốc Hoa làm việc ở Mỹ bị bắt vì cáo buộc che giấu quan hệ với nhà nước Trung Quốc, mặc dù Bộ Tư pháp Mỹ đã hủy truy tố một số trường hợp.
Nếu thương mại và công nghệ được xem là những lĩnh vực có thể hợp tác song phương thì Hong Kong, Tân Cương và Đài Loan là những vấn đề mà Trung Quốc không bao giờ muốn Mỹ can dự, bởi Bắc Kinh xem đây là “công việc nội bộ”. Tuy nhiên, không vì thế mà những điểm nóng này bớt nóng, mà trái lại, năm qua là một năm mà căng thẳng Mỹ – Trung mỗi ngày một dâng cao, đặc biệt là trong vấn đề Đài Loan và Tân Cương.
Các quan chức Nhà Trắng hôm 6/12 nói quyết định tẩy chay ngoại giao đối với Olympic Mùa đông 2022 phản ánh sự thất vọng người Mỹ trước hành vi của chính phủ Trung Quốc ở Tân Cương. Bắc Kinh đã bác bỏ những cáo buộc của phương Tây liên quan đến vấn đề nhân quyền tại khu tự trị này, gọi đó là “lời nói dối thế kỷ”.
Trước đó, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đã ra lệnh trừng phạt các quan chức Trung Quốc liên quan đến việc ban hành và triển khai chính sách ở Tân Cương cũng như ở Hong Kong, nơi Bắc Kinh đã cho áp dụng một luật an ninh quốc gia gây tranh cãi sau phong trào biểu tình năm 2019.
Trong khi đó, eo biển Đài Loan tiếp tục là nơi chứng kiến sự căng thẳng giữa hai cường quốc. Trung Quốc đã bắt đầu hiện thực hóa “mục tiêu trăm năm thứ hai” – chấn hưng dân tộc Trung Hoa – bao gồm việc đưa Đài Loan về dưới sự kiểm soát của Bắc Kinh. Quân Giải phóng Nhân dân điều động máy bay chiến đấu đi vào không phận Đài Loan với tần suất ngày càng dày và số lượng ngày càng nhiều. Những chuyến bay đó gửi đi thông điệp rằng Trung Quốc chưa bao giờ loại trừ khả năng dùng vũ lực để thống nhất hòn đảo mà họ luôn coi là lãnh thổ của mình.
“Không ai được đánh giá thấp quyết tâm kiên cường, ý chí kiên định và khả năng mạnh mẽ của nhân dân Trung Quốc trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ”, ông Tập Cận Bình nói trong một bài phát biểu hồi tháng 10.
Các tổng thống Mỹ lâu nay luôn tránh nói rõ ràng về việc Washington sẽ làm thế nào để bảo vệ Đài Loan trong trường hợp hòn đảo bị tấn công quân sự. Sự “mơ hồ chiến lược” này giúp tránh làm khiêu khích Bắc Kinh, đồng thời gửi đi tín hiệu cho các nhà lãnh đạo của hòn đảo rằng họ không nên tuyên bố độc lập với ý nghĩ Mỹ sẽ chống lưng.
Tổng thống Mỹ Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong cuộc hội đàm thượng đỉnh hồi tháng 11 (Ảnh: Reuters).
Mặc dù vậy, cả chính quyền Biden lẫn chính quyền tiền nhiệm của ông Trump đều tăng cường sự ủng hộ dành cho Đài Loan, động thái luôn vấp phải sự phản đối từ Bắc Kinh. Tàu chiến Mỹ đi qua eo biển ngăn cách hòn đảo và đất liền Trung Quốc. Các toán lính nhỏ của quân đội Mỹ tiến hành huấn luyện với lực lượng Đài Loan. Các nghị sĩ và quan chức chính quyền Mỹ đến thăm Đài Bắc.
Hồi tháng 10, khi được hỏi rằng liệu Mỹ có bảo vệ Đài Loan hay không, ông Biden nói: “Đúng vậy, chúng tôi có cam kết thực hiện điều đó”. Nhà Trắng sau đó nhanh chóng cho biết phát ngôn của ông không thể hiện sự thay đổi trong chính sách.
Đài Loan là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, chiến lược mà Washington vạch ra chủ yếu để hạn chế dấu chân và kiềm chế ảnh hưởng của Bắc Kinh. Vị trí thống trị của Mỹ tại khu vực từ sau Thế chiến II đang ngày càng bị thách thức bởi sự mạnh lên về kinh tế lẫn quân sự của Trung Quốc.
Trong một diễn biến gây bất ngờ cho Mỹ, Trung Quốc được cho là đã thử thành công một tên lửa siêu vượt âm vào tháng 7 và tháng 8 năm nay. Báo Financial Times cho biết tên lửa bay với vận tốc “gấp năm lần tốc độ âm thanh”. Bộ Ngoại giao Trung Quốc bác bỏ thông tin này, nói Bắc Kinh chỉ thử nghiệm công nghệ tái sử dụng động cơ nhằm giảm giá thành phóng tàu vũ trụ.
Dù vậy, vụ phóng thử cũng cho thấy Trung Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kinh ngạc trong phát triển vũ khí siêu vượt âm, nằm ngoài tính toán của Mỹ. Và theo giới quan sát, diễn biến này đã thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang âm thầm giữa các cường quốc.
Sự mạnh lên của quân đội Trung Quốc trong những năm qua rõ ràng là điều mà Mỹ ngày càng lo lắng. Không chỉ nâng cấp kho vũ khí, Trung Quốc cũng tăng cường hiện diện quân sự tại khu vực, bao gồm Biển Đông. Những hành động quân sự hóa của nước này tại vùng biển chiến lược đang có tranh chấp đã bị chỉ trích mạnh mẽ.
Nếu có điều gì mà lưỡng đảng quốc hội Mỹ cùng đồng ý thì đó là việc Trung Quốc cần được coi là đối thủ chiến lược dài hạn mà Mỹ phải đương đầu. Và một trong những nơi mà cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai nước diễn ra gay gắt trong những năm qua và trong nhiều năm tới chính là Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Từ chính quyền Obama cho đến chính quyền Biden, Mỹ ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực và có những can dự mạnh mẽ. Tổng thống Biden đã quay lại với các thiết chế đa phương quan trọng tại khu vực như ASEAN, đồng thời tìm cách củng cố liên minh với Australia, Nhật Bản, Ấn Độ thông qua nhóm Bộ Tứ, hay với Anh và Australia thông qua nhóm AUKUS.
Nếu ý tưởng về Bộ Tứ đã xuất hiện từ lâu và được hồi sinh dưới thời Trump thì AUKUS chỉ mới xuất hiện trong năm nay, cùng với việc Mỹ thế chỗ Pháp trong thương vụ bán tàu ngầm hạt nhân cho Australia. Cả hai nhóm, tuy không phải là liên minh quân sự về mặt chính thức, nhưng đều được nhìn nhận là cách thức Mỹ tập hợp đồng minh để đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực.
Bắc Kinh coi những hành động như vậy là sự khiêu khích nguy hiểm nhằm đảm bảo vị thế bá chủ của Mỹ, và đồng thời tuyên bố rằng Trung Quốc không theo đuổi bá quyền, dù tuyên bố này không tránh khỏi sự hoài nghi.
Các quan chức Bắc Kinh nhấn mạnh rằng Mỹ không cần phải coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một mối đe dọa. Vào tháng 9, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị nói với đặc phái viên về khí hậu của ông Biden, John Kerry, rằng “đánh giá sai lầm nghiêm trọng về chiến lược” của Mỹ là nguyên nhân khiến quan hệ hai nước xấu đi.
Sự xấu đi đó, sau 50 năm kể từ “ngoại giao bóng bàn”, đã mang dáng dấp của một cuộc “Chiến tranh Lạnh kiểu mới”, như nhận định của một số nhà phân tích. Đây cũng là điều mà Trung Quốc cáo buộc Mỹ theo đuổi, còn Washington luôn cố gắng tránh đề cập.
“Chúng tôi không tìm kiếm một cuộc Chiến tranh Lạnh mới hay một thế giới bị chia thành các khối cứng nhắc”, ông Biden khẳng định tại trụ sở Liên Hợp Quốc hồi tháng 9. Dù vậy, việc ông liên tục nhắc đến sự khác biệt về thể chế giữa Mỹ và Trung Quốc, gợi liên tưởng đến cuộc chiến ý thức hệ kéo dài hơn 40 năm trong thế kỷ trước.
Tại Trung Quốc, ông Tập Cận Bình và các quan chức cũng ngày càng nói nhiều hơn về tính ưu việt của hệ thống chính trị Trung Quốc so với Mỹ, mà họ cho là được thể hiện rõ ràng nhất qua cuộc chiến chống lại đại dịch Covid-19 trong hai năm qua.
Dáng dấp “Chiến tranh Lạnh” đó không phải chỉ mới xuất hiện trong năm nay mà là từ khi ông Trump lên nắm quyền và phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) hồi tháng 10 cho biết họ đã thành lập một trung tâm mới chuyên trách theo dõi Trung Quốc, để định vị nước Mỹ trong khi đương đầu với “mối đe dọa địa chính trị quan trọng nhất mà chúng ta phải đối mặt trong thế kỷ 21, một chính phủ Trung Quốc ngày càng đối nghịch”, theo lời giám đốc William J. Burns.
Dù vậy, không giống với chính quyền Trump, chính quyền Biden đã có những nỗ lực để can dự và đối thoại với Trung Quốc, thay vì hoàn toàn đối đầu.
“Dưới chính quyền Biden, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc vẫn tiếp tục chiều hướng cứng rắn như dưới thời người tiền nhiệm, nhưng không đối đầu toàn diện và một chiều, mà có điều chỉnh quan trọng là can dự và đối thoại cấp cao để quản lý các khác biệt và không để các mâu thuẫn Mỹ – Trung vượt tầm kiểm soát”, tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn, phó giám đốc Học viện Ngoại giao, nói với Dân trí.
Chính sách này có thể được thấy qua cách xử lý của chính quyền Biden đối với Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh, dự kiến diễn ra vào tháng 2/2022, theo ông Tuấn. Nếu chính quyền Carter tẩy chay toàn diện khi Liên Xô khi tổ chức Olympics Moscow năm 1980, thì với Thế vận hội Bắc Kinh lần này, chính quyền Biden chỉ “tẩy chay nửa vời”, tức cấm các quan chức ngoại giao và quan chức chính quyền tham dự, trong khi đoàn thể thao Mỹ vẫn tham gia bình thường.
“Tìm ra cách giải quyết ít đối đầu hơn là điều cần thiết đối với hai bên. Thường xuyên gây căng thẳng sẽ gây khó khăn cho việc tìm cách chung sống”, nhà nghiên cứu Ian Johnson của CFR nhận xét về quyết định tẩy chay của Mỹ.
Cuộc hội đàm trực tuyến hôm 15/11 giữa ông Tập và ông Biden đã cho thấy mong muốn của cả hai trong việc quản lý căng thẳng. Trong phát biểu mở đầu, ông Biden cho biết trách nhiệm của hai bên là “đảm bảo rằng sự cạnh tranh giữa hai nước chúng ta không biến thành xung đột”. Ông Tập gọi tổng thống Mỹ là “lão bằng hữu” (bạn cũ), nói “Trung Quốc và Mỹ nên tôn trọng lẫn nhau, chung sống hòa bình và theo đuổi hợp tác cùng có lợi”.
Theo một số nhà ngoại giao và học giả, cuộc gặp kéo dài ba tiếng này, dù không tạo ra bất kỳ đột phá nào lớn, vẫn đóng vai trò quan trọng. Bản thân việc hai nhà lãnh đạo đồng ý cùng ngồi xuống và thừa nhận những khác biệt đã là một tín hiệu tích cực.
“Trong ngoại giao, chúng tôi nói ‘chúng tôi đồng ý là còn bất đồng’. Điều đó tốt hơn là nói thẳng ‘chúng tôi không đồng ý'”, ông Nguyễn Quốc Cường, nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại giao, cựu Đại sứ Việt Nam tại Mỹ và Nhật Bản, cho biết trong một cuộc trò chuyện với Dân trí.
“Ít nhất cuộc gặp đã giúp hai nước hiểu thêm về những quan ngại lớn nhất của mỗi bên, mở đường cho việc tạo dựng mối quan hệ có thể quản lý được giữa Mỹ và Trung Quốc trong những năm tới”, ông Quốc Cường nói.
Trong một kiến nghị chính sách đến từ Viện Brookings hồi tháng 11, ba học giả Ryan Hass, Bruce Jones và John Allen, Chủ tịch Viện, nói rằng cho đến năm 2019, một điều rõ ràng là khuôn khổ quản lý quan hệ Mỹ – Trung trước đây đã không còn hiệu quả. “Đối đầu chiến lược đã trở thành thực tế cơ bản mới của mối quan hệ”, họ viết.
Để quản lý mối quan hệ này, các học giả Mỹ đề xuất một khái niệm mới gọi là “cạnh tranh lâu dài được hiệu chỉnh bởi hợp tác có tính toán”, nhấn mạnh việc thừa nhận rằng cạnh tranh chiến lược lâu dài là nền tảng của quan hệ Mỹ – Trung. Việc thừa nhận này giúp tránh được thất vọng khi nhắm đến những tiêu chuẩn hợp tác phi thực tế, nhưng cũng giúp gạt bỏ lối tư duy rằng đối đầu và xung đột là không thể tránh khỏi.
Đề xuất này vẫn đang được bàn luận, song một trong số khả năng là chính quyền Biden sẽ theo đuổi một cuộc cạnh tranh có thể quản lý được với Trung Quốc. Tổng thống Biden cũng đã tuyên bố rằng ông không tìm cách đối đầu hay xung đột trực diện trong cuộc cạnh tranh này.
Đại sứ Quốc Cường nhấn mạnh việc Tổng thống Biden thừa nhận nhu cầu hợp tác giữa hai cường quốc trong một số lĩnh vực như chống biến đổi khí hậu, cấm phổ biến vũ khí giết người hàng loạt…
Theo tiến sĩ Victor Shih của UC San Diego, cuộc gặp trực tuyến giữa ông Tập và ông Biden đã hướng nỗ lực của các quan chức cấp thấp hơn ở Trung Quốc về phía Mỹ, và việc gặp gỡ ở cấp thấp hơn giữa hai bên cuối cùng có thể dẫn đến thỏa thuận về các vấn đề khác nhau.
“Nếu không có cuộc gặp cấp cao nhất này, sẽ không có bất kỳ động lực nào cho mối quan hệ Trung – Mỹ”, ông Shih nói. Ông cho rằng chính quyền Biden sẽ cố gắng tăng cường đối thoại với các đối tác Trung Quốc, song sẽ không chấp nhận Bắc Kinh “gây hấn” bằng quân sự.
“Các cuộc đối thoại cấp cao sẽ cải thiện quan hệ song phương nhưng tất nhiên bất kỳ hành động quân sự nào mang tính gây hấn của Trung Quốc, dù là ở eo biển Đài Loan, Biển Đông hay ở biên giới Trung Quốc với Ấn Độ, đều sẽ bị Mỹ coi là vô trách nhiệm”, ông Shih bình luận.
Chuyên gia Hass của Viện Brookings nói rằng một trong những bài học kinh nghiệm chính mà Mỹ và Trung Quốc có thể rút ra năm qua là hai bên có rất ít cơ hội để đạt được tiến bộ trong việc quản lý mối quan hệ nếu làm việc theo kiểu “từ dưới lên”.
“Mối quan hệ này đòi hỏi sự tham gia tích cực của cấp lãnh đạo cao nhất, và được quản lý theo kiểu từ trên xuống. Trong năm tới, cả hai nhà lãnh đạo có thể sẽ vẫn giữ liên lạc và sẽ chỉ định các quan chức cấp cao thay mặt họ giải quyết vấn đề”, ông Hass nói.
Trong năm 2022, cả hai nước đều sẽ có những sự kiện chính trị quan trọng tác động lớn đến bản thân ông Biden và ông Tập: bầu cử giữa kỳ (quốc hội) tại Mỹ và đại hội đảng lần thứ 20 tại Trung Quốc. Nếu ông Biden có thể phải đối mặt với viễn cảnh đảng của ông mất quyền kiểm soát ở lưỡng viện, thì ông Tập đang nắm giữ cơ hội tiếp tục ngồi ở vị trí quyền lực nhất Trung Quốc thêm một nhiệm kỳ nữa.
“Chính trị nội bộ vừa là nhân tố ngăn cản hai nhà lãnh đạo có những thỏa hiệp đủ sức nặng cải thiện quan hệ, vừa là nhân tố khiến hai nước cố gắng tránh kết cục xung đột hay đối đầu trực diện”, Đại sứ Quốc Cường nhận định.
Theo học giả Hass, các sự kiện chính trị này sẽ là động lực chính cho mối quan hệ Mỹ – Trung trong năm tới. Cả hai nhà lãnh đạo sẽ duy trì vai trò tích cực trong việc quản lý mối quan hệ để cạnh tranh không biến thành xung đột.
Song hai nước khó có thể tìm thấy cơ hội cải thiện quan hệ một cách đáng kể, vì cả ông Tập và ông Biden đều có mọi lý do để tập trung vào chính trị đối nội hơn là đối ngoại.
“Cả hai bên đều tập trung cho mùa thu tới. Vì vậy, khả năng tan băng trong mối quan hệ sẽ khó có thể xảy ra trước đó”, ông Johnson dự đoán.