Vụ chìm tàu Moscow, kỳ hạm của hạm đội Biển Đen của hải quân Nga, vào ngày 14/4 đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới. Nó dẫn đến những đồn đoán dữ dội về những tác động tiềm ẩn đến cuộc chiến Nga – Ukraine đang diễn ra, đồng thời cũng là bài học giáo huấn sâu sắc cho hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ
Vụ đánh chìm lịch sử đối với tàu tuần dương lớp Slava có khả năng mang vũ khí hạt nhân hơn 12.000 tấn này có ý nghĩa to lớn đối với một khu vực khác trên thế giới: khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Có một số bài học chính cần rút ra từ vụ đắm tàu Moscow. Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sống sót của các tàu chiến thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và các đồng minh của nước này như Lực lượng Phòng vệ Hàng hải của Nhật Bản.
Những bài học này phải được học hỏi và hành động ngay hôm nay chứ không phải chờ đến khi chúng ta bước vào trận chiến. Chúng ta chắc chắn sẽ lãnh hậu quả thất bại thảm hại nếu cứ tiếp tục chờ đợi rồi mới rút ra những bài học kinh nghiệm trong chiến đấu, khi mà tàu chiến của chúng ta có nguy cơ rất cao bị đánh chìm bởi các loại vũ khí chống hạm tối tân của hải quân Trung Quốc và hải quân Nga.
Chỉ có hai bài học rút ra từ vụ chìm tàu Moscow: phòng thủ và tấn công .
Phòng thủ
Trong bối cảnh quốc phòng như hiện nay, một câu hỏi lớn nhất được đặt ra là, tại sao thuyền trưởng và thủy thủ đoàn của tàu Moscow lại không chuẩn bị chút gì cho một cuộc tấn công từ tên lửa hành trình chống hạm phòng thủ bờ biển của Ukraine (ASCM) như vậy.
Phần lớn sẽ giải thích rằng, có thể là do lực lượng hải quân Nga thiếu kinh nghiệm thực chiến đối với mối đe dọa cụ thể đó. Không giống như ba thập kỷ qua của Hải quân Mỹ, với kinh nghiệm dày dặn từ các hoạt động hải quân trong các khu vực và hạn chế, cùng với mối đe dọa của tên lửa hành trình chống hạm ven biển cao như Vịnh Ba Tư, hải quân Nga chưa có kinh nghiệm trau dồi kỹ năng phòng thủ như vậy. Do đó, Moscow tự nhận thấy mình không có lợi khi ở một vị thế bị đe dọa và nguy cơ chết người rất cao khi đối mặt với các tên lửa hành trình chống hạm của Ukraine.
Hơn 30 năm kinh nghiệm thực chiến đã thúc đẩy Hải quân Hoa Kỳ phát triển các vị thế cảnh báo nghiêm ngặt, tình báo, giám sát và trinh sát tập trung và tích hợp, cũng như các công nghệ phòng thủ như hệ thống vũ khí áp sát. Quan trọng nhất, theo thời gian, các sĩ quan hải quân hiểu rằng, nếu Hải quân Hoa Kỳ xảy ra xung đột thì việc vô hiệu hóa tên lửa bờ biển của đối phương là một trong những mục tiêu tối quan trọng trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột.
Nhìn chung, có vẻ như hải quân Nga đã không có cùng mức độ nhận thức về các loại tên lửa phòng thủ bờ biển của Ukraine. Chính kinh nghiệm non kém này đã gây ra thất bại đáng kể cho quân đội Nga. Việc kiểm soát thiệt hại và giữ cho tàu chiến kín nước là tối quan trọng. Trong những năm qua, các nhà quan sát hải quân Mỹ báo cáo rằng, khả năng kiểm soát thiệt hại và chú ý đến tình trạng kín nước của con tàu của hải quân Nga là rất kém.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Hải quân Hoa Kỳ rất chú trọng vào khả năng sẵn sàng về mặt vật chất, kiểm soát thiệt hại và chữa cháy. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, ngày càng có nhiều chỉ số cho thấy các tiêu chuẩn cao của Hải quân đang bị trượt trên dốc lớn.
Các vụ va chạm xảy ra vào năm 2017 giữa hai con tàu USS Fitzgerald và tàu USS John S. McCain đã dẫn đến cái chết của hơn 17 thủy thủ, gây cháy nổ và phá hủy con tàu USS Bonhomme Richard, cùng một loạt các hình ảnh gần đây cho thấy các tàu chiến bị gỉ sét và nhếch nhác với quốc kỳ Mỹ trên tàu.
Những sự kiện gần đây đã nêu bật sự căng thẳng mà các sĩ quan chỉ huy và thủy thủ đoàn của Hải quân Hoa Kỳ đang phải gánh chịu trong thời bình. Nó nhắc nhở người Mỹ rằng, các nhà lãnh đạo Hải quân nợ các thủy thủ này sự sẵn sàng vật chất tốt nhất và sự huấn luyện thực tế nhất để chống lại mối đe dọa tên lửa hành trình chống hạm ASCM, đặc biệt là ở khu vực Thái Bình Dương.
Khi so sánh mức độ bảo vệ hiện tại của các tàu hải quân Mỹ trên tiền tuyến với vẻ ngoài bóng bẩy và sự nhiệt tình mà tôi đã chứng kiến từ Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAN), tôi tin rằng các tàu của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLAN) đã chuẩn bị sẵn sàng để tự vệ. Các năng lực trong quá khứ không đại biểu cho tương lai. Đã đến lúc Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cần phải được cung cấp nguồn lực và thử nghiệm để đảm bảo nó được trang bị về vũ khí tối tân nhất và quân đội được huấn luyện một cách tốt nhất.
Điều khiến cho các năng lực phòng thủ này trở nên quan trọng là tính sát thương của các tên lửa hành trình chống hạm ASCM, giống như những thứ được sử dụng để đánh chìm tàu Moscow. Điều trọng là tên lửa phòng thủ bờ biển cận âm Neptune của Ukraine đã bắn chìm tàu Moscow dựa trên những công nghệ đã có từ nhiều thập kỷ trước.
Để so sánh, Trung Quốc đã trang bị cho hải quân, không quân và lực lượng phòng thủ bờ biển của mình những tên lửa hành trình chống hạm ASCM tối tân nhất trên thế giới trong hai thập kỷ qua. PLAN ngày nay còn khai thác máy bay siêu thanh YJ-18 ASCM có tầm hoạt động hơn 200 hải lý. YJ-18 được trang bị trên các tàu chiến mới nhất của PLAN – tàu tuần dương Kiểu 055 và tàu khu trục Kiểu 0524D — cũng như trên các tàu ngầm và lực lượng không quân và hải quân mới nhất của họ.
Về cơ bản, PLA đe dọa Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ – nhưng không chỉ từ đường bờ biển của Trung Quốc. Hạm đội Mỹ hiện đang gặp rủi ro trước các tên lửa hành trình chống hạm ASCM của hải quân Trung Quốc trên khắp các chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai, khu vực từ đảo Guam đến Hawaii ngày càng bị đe dọa.
Tên lửa hành trình chống hạm ASCM là mối đe dọa bậc nhất đối với Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Theo đó, các sĩ quan chỉ huy, thủy thủ đoàn và tàu chiến của chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ trước những mối đe dọa quan trọng như vậy.
Tấn công
Các bài học kinh nghiệm khác liên quan đến vụ chìm tàu Moscow là năng lực tấn công. Trong khi vụ chìm tàu Moscow là một minh chứng đáng kinh ngạc về mối đe dọa gây chết người đối với các tàu chiến hiện đại do tên lửa hành trình chống hạm gây ra — thậm chí là những con tàu dựa trên công nghệ 30 năm tuổi — sẽ là một sai lầm lớn nếu bỏ qua sự kiện này mà không tập trung vào nhu cầu tăng cường sự chú ý đến các biện pháp đối phó với tên lửa hành trình chống hạm của các tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ, đặc biệt nếu nó nhằm loại trừ việc đẩy mạnh phát triển và nâng cao năng lực tên lửa hành trình chống hạm của chính chúng ta. Về mặt thủ tục và công nghệ, phòng thủ đã là một ưu tiên cực kỳ cao của Hải quân Hoa Kỳ. Nó đã có từ hàng chục năm.
Đối với việc Hoa Kỳ tiếp tục trau dồi khả năng phòng thủ tên lửa ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là rất quan trọng, Hải quân Hoa Kỳ phải đối mặt với một trọng tâm cấp bách hơn liên quan đến khả năng chống hạm của họ — cuộc tấn công so với mặt phòng thủ của thách thức tên lửa hành trình chống hạm. Với những tiến bộ hạn chế về năng lực của tên lửa hành trình chống hạm so với tiến bộ kể từ thời Chiến tranh Lạnh, Hải quân Mỹ hiện chưa được chuẩn bị tối ưu cho cuộc tấn công trên biển chống lại hải quân Trung Quốc.
Phần lớn, sự thiếu chuẩn bị này là kết quả của nhiều năm đánh giá quá lạc quan về môi trường an ninh của các thế hệ lãnh đạo Hải quân Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo — bao gồm những người được bổ nhiệm như sĩ quan cấp cao và quan chức cấp cao — cho rằng sau khi Liên Xô sụp đổ, Hải quân Hoa Kỳ không có đồng minh nào trên biển và do đó, không có gì cấp thiết phải ưu tiên phát triển, tài trợ và củng cố về lĩnh vực này.
Ví dụ, vào cuối những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, các quan chức cấp cao của Bộ Tham mưu Hải quân Hoa Kỳ, bao gồm cả người đứng đầu các hoạt động hải quân, đã quyết định không nâng cấp hoặc mở rộng tên lửa hành trình chống hạm nổi duy nhất của Hải quân, tàu Harpoon.
Thái độ này tiếp tục diễn ra khi các nhà lãnh đạo Hải quân chuyển từ suy nghĩ về việc chiến đấu trên biển như những gì họ từng làm trong Chiến tranh Lạnh và “chiến lược hàng hải” của chính quyền ông Reagan, sang học thuyết chiến đấu “tiến lên… từ biển” nơi sức mạnh hải quân được phô trương từ các vị trí an toàn ngoài khơi bờ biển của các quốc gia khác nhau ở Trung Đông.
Tất nhiên, chiến đấu trên biển và chiến đấu “từ biển” không phải là những khái niệm loại trừ lẫn nhau, mà là sự kết hợp của sự kiêu ngạo, thiếu tầm nhìn và một số điểm không trung thực về chính trị và trí tuệ đã dẫn đến quyết định định mệnh là thoái vốn khỏi khoản đầu tư nghiêm túc về tên lửa hành trình chống hạm.
Vị thế đe dọa bắt đầu thay đổi vào đầu những năm 2000, và trong một thập kỷ rưỡi, mọi chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương đều đệ trình các yêu cầu về trang bị ASCM nổi cho hạm đội. Đáng tiếc, trong hai thập kỷ qua, giới lãnh đạo Hải quân ở Washington đã từ chối hoặc phớt lờ những yêu cầu đó.
Đến năm 2015, nhu cầu về các tên lửa hành trình chống hạm nổi ngày càng trở nên rõ rệt, do khả năng đe dọa của hải quân Trung Quốc ngày càng cao. Nhưng lối tư duy vẫn còn quá tập trung vào việc chiến đấu trong các cuộc chiến trên sa mạc chứ không phải chiến đấu với hải quân đối thủ ngang hàng trên biển ở Tây Thái Bình Dương. Do đó, các quan chức cấp cao của Hải quân và Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng đã áp dụng cách tiếp cận “viện trợ theo dải” để điều chỉnh các tên lửa hành trình và tên lửa tiêu chuẩn hải quân hiện có thành tên lửa hành trình tầm xa hơn có thể nhắm mục tiêu tàu chiến của PLAN.
Vấn đề là các chương trình viện trợ này trong nhiều trường hợp có phạm vi hoạt động ngắn hơn so với các chương trình của hải quân và không quân PLA. Không quá gay gắt khi nói rằng sự thất bại của các quan chức quốc phòng trong công tác chuẩn bị cho Hải quân Hoa Kỳ trước mối đe dọa tên lửa hành trình chống hạm, tương đương với việc đưa hạm đội này đến với kết cục hủy diệt và thất bại nhất định trong các hoạt động tác chiến cường độ cao.
Cần phải thay đổi tư duy tự hủy hoại bản thân, và vụ đắm tàu Moscow là một hồi chuông cảnh tỉnh cho quốc gia này và cả Hải quân Hoa Kỳ.
Giả sử hai chiếc ASCM Hải Vương tinh từ thời Liên Xô có thể hạ gục hạm đội Biển Đen của Nga. Làm thế nào để các nhà lãnh đạo quốc gia và hải quân của chúng ta tin tưởng vào một cuộc chiến trên biển để bảo vệ Đài Loan (hoặc Nhật Bản hoặc Úc) rằng hạm đội của chúng ta sẽ có cơ hội chống lại PLAN, nơi mọi nền tảng của Trung Quốc đều được trang bị tên lửa chống hạm vượt trội hơn rất nhiều, bao gồm cả tên lửa hành trình chống hạm siêu thanh?
Đã đến lúc nghiêm túc và ngừng phủ nhận thực tế này. Chúng ta phải phá vỡ tư duy phát triển chống ASCM này trong Lầu Năm Góc và thực hiện nó ngay bây giờ. Chúng ta phải bắt đầu trang bị cho các tàu chiến của mình bằng các ASCM tầm xa, siêu thanh vượt trội được sản xuất trong nước. Điều này có thể khiến ban lãnh đạo dịch vụ sẵn sàng đặt các ngôi sao / công việc của họ lên bàn cân cho khả năng này.
Bài học từ hai hệ thống tên lửa hành trình chống hạm cận âm ASCM không chỉ dành cho cuộc chiến đang diễn ra ở Nga; mà chúng còn là những bài học vô cùng quan trọng cho Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ ngày nay. Khi nói đến quốc phòng, những bài học này có thể được rút ra mà không cần tăng ngân sách khổng lồ: đó là về việc phân bổ lại ngân sách từ nội bộ Lầu Năm Góc cho việc bảo trì tàu chiến và huấn luyện phòng thủ hệ thống tên lửa hành trình chống hạm ASCM trên thực tế.
Một lần nữa, việc phân tích chi phí-lợi nhuận rõ ràng không cần phải bàn cãi khi phải lựa chọn giữa đầu tư vào hệ thống tên lửa hành trình chống hạm cận âm ASCM tối tân, hoặc mất hàng tỷ USD vào các tàu chiến và các thủy thủ đoàn không thể thay thế vận hành hạm đội của chúng ta. Tệ hơn nữa, chúng ta – không cần bàn cãi – sẽ thua trong cuộc chiến.
Đã đến lúc đưa Hải quân Hoa Kỳ trở lại với năng lực mà nó vốn có: lực lượng chiến đấu vĩ đại nhất trên thế giới.
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là ý kiến của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.
Tác giả: Jim Fanell, một thuyền trưởng Hải quân Hoa Kỳ đã nghỉ hưu, hiện là thành viên chính phủ tại Trung tâm Chính sách An ninh Geneva ở Thụy Sĩ, và là cựu giám đốc hoạt động tình báo và thông tin của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Là một diễn giả quốc tế được công nhận và nhà văn xuất sắc, Fanell cũng là người sáng tạo và quản lý diễn đàn An ninh Ấn Độ-Thái Bình Dương Red Star Rising / Risen.
T.P