Dù chưa thể dùng từ ‘ồ ạt tháo chạy’, nhưng rõ ràng dòng vốn ngoại đang lặng lẽ rời khỏi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Điều gì khiến nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin với Trung Quốc đến thế?
Theo Viện tài chính quốc tế (IIF), trong tháng 3/2022, 17,5 tỷ USD vốn ngoại đã rời khỏi thị trường Trung Quốc; trong đó 11,2 tỷ USD tháo chạy khỏi thị trường trái phiếu, còn lại là rời bỏ thị trường cổ phiếu.
Dữ liệu chính thức của Trung Quốc cũng khẳng định số liệu của IIF, một lượng vốn kỷ lục đã từ bỏ thị trường trái phiếu của nước này. Chỉ trong tháng 3/2022, khoảng 52 tỷ nhân dân tệ (CNY) vốn ngoại đã tháo chạy khỏi Bắc Kinh.
Phương tây: Ủng hộ Nga xâm lược Ukraine khiến vốn ngoại bỏ Trung Quốc
Ông George Magnus, cộng sự tại Trung tâm Trung Quốc của Đại học Oxford và là cựu chuyên gia kinh tế trưởng tại UBS, cho rằng việc Bắc Kinh ủng hộ việc Nga xâm lược Ukraine rõ ràng là chất xúc tác khiến dòng vốn rời khỏi Trung Quốc.
Ông Martin Chorzempa, một thành viên cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, cho biết mọi người lo lắng về sự ngang ngược của Bắc Kinh, nhưng rõ ràng là lập trường thiên vị Nga về cuộc chiến Nga-Ukraine, làm dấy lên lo ngại rằng Trung Quốc có thể trở thành mục tiêu của các lệnh trừng phạt nếu Bắc Kinh giúp đỡ Nga.
Bắc Kinh đã bỏ phiếu trắng trong một cuộc bỏ phiếu quan trọng của Liên Hợp Quốc lên án cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, truyền thông nhà nước Trung Quốc cũng giúp Nga phát tán thông tin sai lệch và liên tục đổ lỗi cho Mỹ và NATO về cuộc chiến. Trong trường hợp này, chính quyền Bắc Kinh sắp phải chịu các lệnh trừng phạt thứ cấp.
Vào ngày 20/4, số liệu mới nhất do Tổng cục Hải quan Trung Quốc công bố cho thấy trong tháng 3 năm nay, nhập khẩu than của Trung Quốc từ Nga đã giảm mạnh từ 4,4 triệu tấn cùng kỳ năm ngoái xuống 3,12 triệu tấn, giảm tới 29%. Động thái này khá gây ngạc nhiên vì Trung Quốc đang rất thiếu than cho ngành điện trong khi Nga cần xuất khẩu để có ngoại tệ trang trải cho cuộc chiến với Ukraine chưa biết khi nào mới kết thúc.
Reuters” chỉ ra rằng việc các công ty Trung Quốc cắt giảm việc mua than của Nga, chủ yếu là do họ khó có được nguồn tài chính tương ứng từ các ngân hàng quốc doanh. Và các tổ chức tài chính Trung Quốc không dám chuyển tiền mua than cho Nga chủ yếu vì họ sợ các lệnh trừng phạt của phương Tây sẽ áp lên họ.
Đối thủ của CNY là USD tăng giá cũng khiến dòng vốn đảo chiều
Lập trường của Bắc Kinh về cuộc chiến Nga-Ukraine không phải là lý do duy nhất đằng sau dòng vốn chạy khỏi Bắc Kinh. Việc Fed tăng lãi suất đã khiến giá trị đồng USD phục hồi mạnh mẽ. Rõ ràng, cuộc chiến tiền tệ CNY và USD đang nghiêng lệch về phía USD với cam kết tăng lãi suất cao hơn mức 25 điểm phần trăm, là 50 điểm phần trăm trong tháng 5/2022 tới của Fed.
Trên thị trường tiền tệ quốc tế, đồng CNY giao dịch quanh mức 6,57 CNY cho mỗi USD. Đồng CNY đang chịu áp lực mất giá, so với USD, rõ ràng giá trị của CNY đang rơi thẳng đứng.
Tuy nhiên, CNY đang chịu áp lực mất giá mạnh hơn khi các quan chức ở Bắc Kinh theo đuổi chính sách ‘không covid’ nên đã phong toả hà khắc. Điều này ảnh hưởng trầm trọng tới thương mại, tăng trưởng, an sinh xã hội… Thêm vào đó, việc tăng lãi suất chuẩn của Hoa Kỳ đã khiến lợi nhuận đầu tư vào các tài sản có thu nhập cố định của Trung Quốc kém hấp dẫn hơn.
Tất cả tác động tiêu cực tới đồng CNY. Giá trị đồng CNY đã mất 3% chỉ trong 5 phiên giao dịch gần đây. Trung Quốc buộc phải tiếp tục nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ để cứu vớt tăng trưởng trong nước; nhưng điều này lại tiếp tục làm giảm giá đồng CNY.
Trong khi các nền kinh tế đối thủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ để ứng phó với lạm phát, thì lạm phát của Trung Quốc tuy cao song lại không thể thắt chặt lãi suất, mà phải tiếp tục nới lỏng để cứu vãn nền kinh tế trong nước. Việc đi ngược chiều với các nền kinh tế đối thủ khiến Trung Quốc tổn hại lớn hơn; đồng CNY mất giá sâu hơn với đồng USD, dòng vốn ngoại từ bỏ Trung Quốc khi lợi nhuận không còn (do bị bào mòn bởi đồng tiền nội tệ mất giá quá lớn), quay trở về với nền kinh tế đối thủ là Mỹ.
Trước kia, Trung Quốc hấp dẫn dòng vốn ngoại khắp toàn cầu nhờ để lợi suất huy động trái phiếu chính phủ cao hơn nhiều so với lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ (kỳ hạn 10 năm). Hiện nay, lợi thế này đã biến mất. Lợi suất trái phiếu chính phủ 10 năm ở Mỹ hiện giao dịch ở mức tương đương với lợi suất trái phiếu chính phủ Trung Quốc cùng kỳ hạn.
Đồ thị về lợi suất trái phiếu chính phủ giữa nền kinh tế lớn nhất toàn cầu cho thấy lợi suất trái phiếu Trung Quốc đã suy giảm mạnh trong khi của Mỹ tăng cao; mối tương quan giữa hai loại trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm đã đảo chiều.
‘Zero covid’ và đàn áp kinh tế tư nhân
Lu Ting, chuyên gia kinh tế trưởng về Trung Quốc tại Nomura Securities, nói với AFP: “Khi lợi ích của chính sách ‘zero covid’ giảm, chi phí của nó sẽ tăng lên đáng kể, đặc biệt là khi xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi phong toả khắc nghiệt đang diễn ra”.
Đại dịch và ủng hộ Nga hiển nhiên không phải là lý do duy nhất khiến kinh tế Trung Quốc suy thoái, nỗi đau hiện nay trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế được bắt nguồn từ 2 năm trước, khi chính quyền Bắc Kinh tiến hành một cuộc đàn áp toàn diện đối với kinh tế tư nhân dưới danh nghĩa “điều tiết”, “thịnh vượng chung”.
Chính sách nhất quán, có lộ trình chiến lược trong việc đàn áp khu vực kinh tế tư nhân, quốc hữu hoá khu vực kinh tế tư nhân vốn chịu trách nhiệm khoảng 50% tổng vốn đầu tư ở Trung Quốc và tạo ra khoảng 75% sản lượng kinh tế, chắc chắn khiến nền kinh tế này sớm muộn phải kiệt quệ.
Chỉ khi rơi vào tay nhà nước, năng suất, hiệu quả sẽ lập tức sụt giảm. Một nghiên cứu của Nicholas Lardy, đăng trên Tạp chí Đại học quốc gia Úc (2018) [1], cho thấy tại thời điểm năm 2016, cùng một đồng vốn chủ sở hữu, khu vực tư nhân sẽ tạo ra số lợi nhuận gấp 4 lần các DNNN. Và chỉ trong 10 năm (2006-2016), hiệu quả sinh lời trên một đồng vốn của khu vực tư nhân tăng 12% trong khi của khu vực DNNN giảm 57%.
Với số liệu như vậy và với nỗ lực quốc hữu hoá kinh tế tư nhân, đàn áp và buộc các doanh nghiệp lớn phải nghèo đi bằng cách chia của cải cho Đảng cộng sản Trung Quốc phân phối lại sẽ là cách thức để cả nền kinh tế lao dốc. Và những gì đang diễn ra thực sự là kết quả tất yếu của chính sách kinh tế mà Bắc Kinh lựa chọn mà thôi.
T.P